Bài Giảng Kinh Tương Ưng Tập 3 – Chương 1: Tương Ưng Uẩn – Phẩm Thuyết Pháp

Bài giảng Kinh Tương Ưng Tập 3 

Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Thuyết Pháp

VÔ MINH (Avijjāsutta)

Một vị tỳ kheo đến hỏi Đức Thế Tôn thế nào là vô minh. Có chỗ định nghĩa vô minh là bất tri trong Tứ Đế. Vô minh trong Khổ đế là không biết rằng mọi hiện hữu là Khổ; vô minh trong Tập đế là không biết tất cả niềm đam mê là nguồn khổ; không biết rằng sự vắng mặt của Khổ đế và Tập đế là Niết bàn là vô minh trong Diệt đế; không biết Bát Chánh Đạo là con đường dẫn đến Diệt đế là vô minh trong Đạo đế.

Trong bài kinh này vô minh được định nghĩa khác, vì tùy căn tánh của người nghe. Nếu họ thích hợp với Bốn Đế thì Đức Phật sẽ nói rằng vô minh chính là không hiểu biết về Bốn Đế; nếu họ thích hợp với đề tài năm uẩn thì Ngài sẽ nói vô minh là sự không hiểu biết trong năm uẩn v.v…

Vô minh ở đây là không thấy được Tứ Đế trong năm uẩn. Không thấy rõ rằng sự có mặt của năm uẩn là khổ. Đó là vô minh về Khổ đế trong năm uẩn. Không thấy rằng sự đam mê trong năm uẩn chính là Tập đế. Không thấy rằng sự chấm dứt năm uẩn là Diệt đế. Không thấy rằng sự nhàm chán trong năm uẩn (Bát Chánh Đạo) chính là Đạo đế. Bát Chánh Đạo lúc bấy giờ chỉ còn lại có một chữ: ‘Chán’, hoặc ‘Sợ’. Xem lại bài Bát Chánh Đạo[1]. Chỉ riêng một chánh trong tám chánh cũng đủ đại diện, tiêu biểu cho cả tám chánh.

PHÁP SƯ (Dhammakathikasutta)

Ở đây, có người đến hỏi Đức Phật: Bạch Thế Tôn hiện giờ trong tăng chúng có những vị được gọi là Pháp Sư, vậy con phải hiểu thế nào cho chính xác từ ngữ ‘Pháp sư’. Ngài trả lời: Pháp sư phải là người có khả năng thuyết giảng cho người ta thấy rõ năm uẩn là gì; thấy được vị ngọt, sự nguy hiểm, sự giải thoát, xả ly lìa bỏ năm uẩn. Dù cho có thuộc lòng hay không thuộc lòng Tam tạng, vị Pháp sư phải chú mục vào việc phải nói làm sao cho người ta nhàm chán, lìa bỏ, kinh cảm, sợ hãi sự có mặt của năm uẩn. Vị Pháp sư như vậy mới gọi là khó kiếm. Còn nói cho người ta vui, người ta cười, người ta thích, mến mình, để cho mình có danh có lợi thì không phải là pháp sư.

Trong kinh Đức Phật dạy, có những hạng người khó kiếm:

– Sự ra đời của một vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

– Người biết tri ân báo ân.

– Người thuyết giảng chánh pháp nhắm đến giải thoát, nhắm đến sự buông bỏ.

Hồi nhỏ thật sự tôi không biết là người có lòng tri ân khó kiếm, sau này già lăn lóc trong cuộc đời dâu biển, tôi mới hiểu người có lòng tri ân không có nhiều. Tôi, đã từng đối xử với họ hết lòng hết tình, hướng dẫn cho họ chánh kiến, cuối cùng thì họ không một chút cảm kích mà tôi biết rằng những hướng dẫn của tôi trong những ngày tháng đó đã thay đổi họ rất nhiều. Cuối cùng họ coi như chuyện bình thường, tôi không cần sự báo đáp nhưng nản vì thấy lòng người lạ quá, hiện giờ họ đi theo thầy bà khác. May là tôi không cho tiền cho bạc họ, tôi chỉ dạy học trong mấy năm trời, vậy mà bây giờ đi theo thầy chủ trương mê tín. Chỉ chuyện nhỏ như vậy mà mình thấy người tri ân rất là khó kiếm.

Làm gì thì làm, ai giảng và giảng cái gì về Phật pháp, nội dung rốt ráo nhất phải là sự buông bỏ. Dù có giảng về chữ hiếu, pháp bố thí, giữ giới, thập thiện, thập ác… giảng gì cũng được, nhưng rốt ráo vẫn là nội dung buông bỏ. Nếu không có sự kinh cảm sợ hãi, nhàm chán đối với năm uẩn, đối với Tam giới, ngũ thú lục đạo thì cứ còn luân hồi. Còn có lòng thích thú thì còn đầu tư năm uẩn. Không có con đường giải thoát nào nằm ngoài sự nhàm chán sợ hãi đối với năm uẩn. Bây giờ đã là bảy giờ kém, xin hẹn lại bà con ngày thứ Hai. Xin hồi hướng phước giảng kinh này cho Sư Trưởng, mong là Sư sống vui sống khỏe, bà con trong room này cũng vậy, luôn được sự hỗ trợ tinh thần từ thầy bạn và của hàng khuất mày khuất mặt, khi dễ duôi thì họ cho mình thấy cái này cái kia và khi mình gặp khó thì họ hỗ trợ cho mình ít nhiều.

TRÓI BUỘC (Bandhanasutta)

Mình cùng nhau đọc chút xíu chánh kinh, vì có một vài chữ cần phải để ý. Sáng nay chúng ta học một loạt các bài kinh nội dung giống nhau. Sở dĩ có chuyện đó vì các ngài kiết tập Tam tạng gom những bài kinh có nội dung gần giống nhau để vào một chuỗi. Còn bối cảnh thì khác nhau và thời gian thuyết giảng từng bài có thể cách nhau năm năm, mười năm, hai mươi năm. Không giống như bên Bắc Tông, họ có cái thuyết gọi là “Ngũ thời thuyết giáo”. Trí Khải đại sư tưởng tượng ra lúc Đức Thế Tôn mới thành đạo, trong đời Ngài chia ra năm thời điểm, lúc thì thuyết toàn kinh Đại Thừa, lúc thì thuyết toàn kinh Tiểu Thừa, lúc thì thuyết cho Bồ Tát, lúc thì thuyết cho ThanhVăn… Bên PGNT không phải như vậy, không có chuyện thứ lớp. Có thể buổi sáng Ngài gặp một kẻ cướp, trưa gặp một học giả, tối gặp ông vua hoặc chư tăng, tùy đối tượng Ngài thuyết. Hai đối tượng có thể cách nhau vài giờ đồng hồ, và cách thuyết giảng cùng đề tài cho hai đối tượng cũng khác nhau chẳng hạn với người ít học Ngài nói khác, với người giỏi Veda thì Ngài nói khác. Thuyết Ngũ thời thuyết giáo vốn không có trong kinh Nguyên thủy.

“3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh… không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc…”

Chữ ‘quán’ ở đây có nghĩa là ‘xem’, ‘coi’, ‘nghĩ tưởng’, ‘cho rằng’, ‘nhận thức rằng’, ‘quan niệm rằng’. Ngài Minh Châu dịch sát từ chữ ‘samanupassati’.

quán sắc như là tự ngã” nghĩa là nhìn vật chất ngoại thân và nội thân, thấy trong vật chất có mình, mình và vật chất là một. Ví dụ, cái đồng hồ, cách đây một giờ nó còn nằm trong tiệm, mình chưa mua, nếu nghe nói tiệm đồng hồ đó bị cháy, tâm mình dửng dưng. Nhưng sau khi mình đã trả tiền, cái đồng hồ đã vào túi của mình, nếu có bị trầy xước, bể, mất trộm thì mình đau khổ ghê gớm, bởi lúc bấy giờ cái đồng hồ gắn liền với máu thịt của mình. “quán sắc như là tự ngã” là như vậy. Lúc bấy giờ cái đồng hồ với mình là một. Tôi nhớ VN có câu chuyện nhỏ: Đàn ông mở cửa xe cho đàn bà chỉ có ba trường hợp: vợ mới cưới, xe mới mua, hoặc đó không phải là vợ. Ở VN thì người ta có thể hiểu ngầm là xe đó mới mua hoặc người phụ nữ đó mới quen. Khi mình chưa mua thì chiếc xe đó không có quan hệ gì với mình hết, nhưng khi đã thuộc về mình và nhất là xe mới nữa thì giữa mình với nó có mối quan hệ ghê gớm lắm. Cũng tấm thân này, khi mình nghĩ là mình đẹp thì mình dành nhiều thời giờ để chăm sóc nó. VN có một từ “kẻ yêu gương” nghĩa là người thích soi gương. Cổ tích các nước trên thế giới có điểm giống nhau là bà hoàng hậu khi không có nhan sắc thì rất ghét gương và cho người đập vỡ hết tất cả các gương trong nước vì không chịu nổi chuyện nhìn thấy mặt mình trong gương. Còn nếu mình thấy mình trẻ, đẹp, có thể nhìn ngắm được thì mình thích soi gương. Lúc bấy giờ mình và hình hài nhan sắc ngoại diện của mình là một, nó là tôi, tôi là nó; bằng mọi giá mình phải bảo vệ nó. Tất cả những niềm vui nỗi buồn trong đời mình, mình coi nó và mình là một, đó gọi là quan sát danh uẩn gắn liền với cái tôi, cả vật chất và tinh thần, nó chính là tôi, tôi chính là nó. Lẽ ra với cái nhìn của người hiểu đạo thì hiểu rằng tấm thân này, tài sản này, tất cả niềm vui nỗi buồn này đều theo duyên mà có và theo duyên mà mất, vì duyên mà đến, vì duyên mà đi; quan sát nó như là một người đứng bên bờ nhìn những phiêu vật trôi nổi trên dòng nước, lúc thì là một tờ giấy, lúc thì là một cùi bắp cọng rơm cọng rác. Chính vì nhiều đời nhiều kiếp mình quen gắn liền cái tôi với vật chất, cái tôi với tinh thần., Đức Phật gọi sự gắn liền đó là “quán sắc như là tự ngã”, “tự ngã như là có sắc”. Cái đồng hồ đó chính là tôi, tôi chính là đồng hồ đó. Gương mặt đó chính là tôi, tôi chính là gương mặt đó. Quyền lực đó, chức vụ đó chính là tôi, tôi chính là quyền lực chức vụ đó. Mình không phân biệt được cái gì là trong, cái gì là ngoài, không thấy được rằng mình không quan hệ gì với cái mình sở hữu. Chữ ‘của’ là một đề tài, một công án rất lớn để mình tham chiếu suốt cuộc đời. Bởi vì, nếu ngồi bình tâm, mình sẽ suy nghĩ, chữ ‘của’ đó là gì, bản chất thật sự của nó ra sao. Tôi từng kể nhiều lần câu chuyện anh chàng ghép chân, đêm đêm không ngủ được vì sợ hãi khi trong cơ thể mình có cái chân của một người đã chết. Đó là suy nghĩ sai lầm, bởi cơ thể mình từ nhỏ đến lớn luôn luôn thay đổi, chỉ có cái gene thì không mà thôi. Sư phụ anh ta nói, thật ra chẳng có cái chân nào của anh ta, ngay cái chân đã cưa bỏ cũng không phải, cái chân ghép cũng không phải là của người khác, bữa nay nó đến bữa sau nó cũng đi. Với một người biết đạo, một hành giả, thì sự quán chiếu cho họ thấy mọi sự khác đi. Không phải biết đạo thì trở thành một người có suy nghĩ bất thường mà là nhìn rõ hơn, trưởng thành hơn, không tiếp tục nhận thức sai lầm nữa, không gắn liền tôi và của tôi với hình hài thân xác, với niềm vui nỗi buồn nữa. Cho nên, rất nhiều lần Đức Thế Tôn đến thăm bệnh vị tỳ kheo hay cư sĩ, Ngài thường hỏi một câu “có đau đớn lắm không, có chịu nổi không”, và những vị ấy phải nặng lắm mới đến mức Ngài đi thăm. Họ thường trả lời: “Bạch Thế Tôn con chịu không nổi, con nghĩ thà chết còn hơn, sống với cơn đau thế này con chịu không nổi”. Khi đó Đức Phật dạy: “Hãy quán niệm rằng tất cả những đau đớn sợ hãi này cũng là vô thường, dầu ghê gớm cách mấy rồi nó cũng vô thường. Tất cả những gì trước đây con thấy ngọt ngào hấp dẫn, cũng đã bỏ con mà đi rồi phải không. Đừng nghĩ rằng con bịnh, khổ thọ đó, cảm giác đó không phải là con và con không phải là nó”. Tôi diễn dịch bài kinh đó bằng ngôn ngữ của thời nay là như vậy đó. Đừng ghép ‘cái tôi’ với cơn đau, vì như thế thì lớn chuyện lắm.

“Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là kẻ vô văn phàm phu, bị trói buộc bởi các trói buộc của sắc, bị trói buộc bởi các trói buộc nội ngoại, kẻ không thấy bờ bên này, kẻ không thấy bờ bên kia, khi sanh bị trói buộc, khi chết bị trói buộc, khi đi từ đời này qua đời khác bị trói buộc.”

“nội ngoại” ở đây là nội xứ và ngoại xứ, ví dụ như mình bị trói buộc bởi mắt, bị trói buộc bởi cảnh sắc, bị trói buộc bởi cái mình thấy và sự thấy; bị trói buộc bởi cái mình nghe, âm thanh và thính giác.

“không thấy bờ bên này, kẻ không thấy bờ bên kia”; đọc bản tiếng Việt nghe câu này không hay, quí vị đọc bản dịch Pāḷi mới thấy hay:

‘Atīradassī’: không thấy được bờ sinh tử.

Apāradassī: không thấy được bờ giải thoát.

Tiradassi kẻ thấy được bờ mê (mê tân), ‘Paradassi’ kẻ thấy được bến giác (giác ngạn). Tīra và Para đều là bờ nhưng trong Hán tạng dùng hai từ Tân, Ngạn để phân biệt.

Theo chú giải, ‘tīra’ cũng có nghĩa là ‘bờ’ nhưng ám chỉ cho luân hồi (vaṭṭa). Chữ ‘pāra’ cũng có nghĩa là ‘bờ’ nhưng ám chỉ cho Niết bàn (nibbana).

Thưa với quí vị rằng, tôi cực kỳ sung sướng bởi vì “cái tôi nói có người thấy”. Tôi kể quí vị nghe một câu chuyện nhỏ. Một vị tỳ kheo tên là Lakkhana đang đi chung với ngài Mục Kiền Liên trên núi bỗng thấy ngài Mục Kiền Liên cười. Ngài Lakkhana hỏi: Sư huynh thấy gì mà cười vậy? Ngài Mục Kiền Liên nói: Lát nữa trước mặt Thế Tôn thì sư đệ hẵng hỏi. Sau khi đi bát xong xuôi về đảnh lễ Phật, ngài Lakkhana nhắc lại câu chuyện lúc sáng. Ngài Mục Kiền Liên nói: “Hồi sáng tôi thấy một cục thịt to bay ngang qua mặt mình, lát sau tôi gặp một bộ xương bay ngang, tôi biết đó là loài ngạ quỷ. Có lúc tôi nhìn thấy một vị tỳ kheo đắp y tăng già lê bay ngang mặt mình mà mình mẩy bao phủ bởi lửa. Tôi cười vì thấy trên đời này nhiều trò quá”. Đức Phật dạy: “Này Lakkhana, trước đây Như Lai vừa thành đạo cũng thấy vậy nhưng ta không nói cho ai biết bởi vì người thấy giống như vậy không có, nên người ta sẽ nghi ngờ. Hôm nay có Mục Kiền Liên nói thì ta xác nhận ta đã từng thấy như vậy”. Rồi Ngài giải thích, những con ngạ quỷ, ngày xưa cũng từng là quan chức tham nhũng hối lộ, hoặc là những người vợ không nên nết, người chồng không ra gì. Vị tỳ kheo đi trên hư không bị lửa cháy là ngày xưa tu tập không chơn chánh nên khi chết rồi sinh làm ngạ quỷ, do nghiệp khiến cho có hình thức là vị tăng hoặc vị ni, nhưng lại bị đốt suốt nhiều ngàn năm.

Tôi vui vì khi tôi đang giảng quí vị post (câu Pāḷi) lên như vậy, nghĩa là cái chỗ tôi thấy cũng là chỗ bà con thấy. Atīradassi dịch là “không thấy được bờ mê”, apāradassī là “không thấy được bến giác”. Quá sang!

Vì không thấy được bờ mê bến giác cho nên bị trói buộc từ đời này sang đời khác. Tôi đã nói vô số lần, tôi, người đang nói chuyện đây, có ra làm sao đi nữa, nhưng khi tôi ngồi trong đây chia sẻ với bà con, thì làm ơn lắng nghe giùm. Mình mất thời gian vào đây thì phải lắng nghe. Nhiều người nghĩ bụng không biết tôi có phải hành giả không mà giảng mấy cái này. Thật sự thì dù tôi có như thế nào đi nữa, nói mấy chỗ này bắt buộc cũng phải thấy như vậy, bởi kinh điển, chú giải đã nói rõ như vậy. Điều thứ hai, quan trọng hơn nhiều, người không hiểu đạo khi chấp chặt cái ‘tôi và của tôi’ đối với vật chất và tinh thần thì chính sự trói chặt đó, từ thân ngũ uẩn đời này họ đầu tư cho tấm thân danh sắc đời sau. Biết được điều này chúng ta mới thấy sợ, ngay bây giờ khi quí vị và chúng tôi đang cùng có mặt trong cái room giáo lý như thế này thì biết bao nhiêu con trùn, con chim, con cá đang tiếp tục chìm sâu trong cõi luân hồi. Mình cũng vô minh nhưng nhờ lời Phật mình thấy lờ mờ, còn biết bao nhiêu chúng sinh trong cuộc đời này hiện giờ vẫn không biết chúng là ai, là cái gì, từ đâu tới và sẽ đi về đâu. Tang thương hơn là họ không hề biết rõ cái mà họ thấy là ngọt ngào hấp dẫn đến từ ba nhân: tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý, hoàn cảnh sống hiện tại. Có loài giờ này nằm trên đống rác, xác thúi của một động vật nào đó, hoặc cái đống phân, mà lại thấy như một gia tài, mâm cỗ, bữa tiệc. Chư thiên nhìn mình y như mình nhìn thấy chúng, họ thấy mình nấu nướng, dọn mâm dọn chén, tắm rửa giặt giũ, họ cũng ớn như vậy. Vì tiền nghiệp đẩy mình vào làm thân nhân loại, rồi mình có nhà cửa, bằng cấp, tiền bạc, xe cộ… Hiện giờ mình đang vacation ở Bali, ở Hongkong, hoặc đang ở Paris, London ăn điểm tâm rồi đi shopping, săm soi những món hàng hiệu món giá năm ngàn, tám ngàn… mà không hề biết rằng có những chúng sinh cao cấp hơn, nhìn mình, họ cũng lạnh xương sống. Còn riêng mình, thì mình tự thấy quá bảnh, quá sang. Mình thấy nhiều người Việt xa xứ không được như mình, nhìn về quê hương thấy bao nhiêu người không được như mình. Vì sao mình thích những cái đó? Tiền nghiệp đẩy mình vô chỗ đó, vì thích nên mình thấy nó ngọt, cộng với khuynh hướng tâm lý và môi trường sống. Chứ nếu tiền nghiệp đẩy mình vô Đồng Tháp, U Minh thì giờ này mình quần ống thấp ống cao đi bắt rùa bắt rắn… Tôi đang vẽ lại cuộc đời của quí vị đó. Một mâm cỗ của vị đế vương, trong cái nhìn rốt ráo cũng như đống phân vậy thôi. Chính vì không thấy như vậy nên đời này qua đời khác bị trói buộc. Năm uẩn ở đây chia gọn thành hai: sắc uẩn và danh uẩn (đời sống tinh thần và đời sống vật chất). Bốn danh uẩn (thọ, tưởng, hành, thức) kể ra thì lê thê nhưng thật ra chúng là bốn khía cạnh tâm lý luôn luôn có mặt chung nhau trong từng sát na.

GIẢI THOÁT

Ở đây Đức Phật cũng dạy y hệt như vậy. Ngài hỏi: Các ngươi có thấy ‘cục thịt’ (tấm thân) này là các ngươi và các ngươi chính là ‘cục thịt’ này hay không, những niềm vui nỗi buồn này có phải là các ngươi hay không? Chư tỳ kheo trả lời: Thưa không.

“Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo? Các Ông có quán sắc: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?

Thưa không, bạch Thế Tôn.

Lành thay! Này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải như thật quán với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

Vì sao các tỳ kheo trả lời như vậy? Vì trước khi cạo đầu đi theo Thế Tôn là các vị ấy đã nghe điều này rồi. Vì nghe được hiểu được nên mới đi theo Phật, và khi Đức Phật hỏi thì hiểu ngay phải trả lời như thế nào. Chính các vị ấy trong bao nhiêu ngày tháng chiêm nghiệm, sống chết buồn vui trong sự quán niệm nên thấy rõ cái này không phải ‘của tôi’. Chỉ quán sát chữ ‘của’ là đủ đắc A-la-hán rồi. ‘Của’ là một khái niệm rất buồn cười. Khi mình còn thở thì ai đụng không được chớ mười lăm phút nữa không còn thở thì phũ phàng ghê gớm. Chỉ cần quên thở mười lăm phút thì người thân mình không dám đụng. Mình mất mười mấy năm để trở thành bác sĩ, luật sư, chủ nhà hàng, chủ tiệm nail, mở phòng mạch, mở văn phòng, tìm kiếm thân chủ, có quan hệ xã hội, gia đình hạnh phúc v.v…; đùng một cái, quên thở mười lăm phút thì quên tất cả mọi cái mình có, căn nhà tám triệu đô la giờ không biết của ai, vợ mình người khác xài, con mình người khác sai. Quán chiếu như vậy thì thấy chữ ‘của’ là chữ mỉa mai bậc nhất trong ngôn ngữ của chúng sinh. Chư thiên mà chết còn thảm nữa, chỉ cần nghiệp mệnh chung xảy đến thì tan biến như “một làn khói trắng ru đời vào quên lãng” không để lại dấu vết gì hết. Chúng ta còn để lại ‘cục thịt’ này cho người ta thiêu, chôn. Chính vì vậy Đức Thế Tôn biết các vị tỳ kheo đã thấy, đã hiểu rồi mà Ngài vẫn hỏi:

– Các ngươi có thấy cái tấm thân này là của mình hay không?

– Dạ không.

– Các ngươi có thấy tất cả niềm vui nỗi buồn là của mình hay không?

– Dạ không.

– Các ngươi có thấy những hồi ức, kỷ niệm, kiến thức kinh nghiệm là của các ngươi hay không?

– Dạ không.

– Các ngươi có thấy những cảm giác khó chịu dễ chịu này là của các ngươi hay không?

– Dạ không.

Lâu lâu gặp mặt, Ngài nhìn cái tâm của các vị tỳ kheo và hỏi như vậy. Có những khi các vị ấy trả lời xong thì đắc quả A-la-hán, có khi họ không đắc gì hết nhưng bội phần tinh tấn hơn. Có nhiều khi họ đang dễ duôi, Ngài hỏi, và lập tức họ trở lại tinh tấn như cũ. Nội dung bài kinh là Ngài liên tục xác nhận rằng một người cầu đạo giải thoát phải thường trực quán chiếu rằng ‘tấm thân này không phải là của tôi’, ‘tôi không phải là tấm thân này’, tất cả những nỗi khổ niềm đau không phải là của tôi và tôi cũng không phải là chúng.

Bài kinh Giải Thoát tiếp theo cũng y hệt như vậy. Ngài cũng hỏi và chư tăng trả lời.

KIẾT SỬ

“3) — Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về các pháp bị trói buộc và sự trói buộc. Hãy lắng nghe. 4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp bị trói buộc? Thế nào là sự trói buộc? Sắc, này các Tỷ-kheo, là pháp bị trói buộc. Dục và tham đối với sắc là sự trói buộc của sắc….”

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là các pháp bị trói buộc. Tâm tham, lòng ưa thích, là sự trói buộc. Ở đây, nếu đọc bản tiếng Việt nghe chữ ‘bị’ mình dễ hiểu nhầm. Bài kinh này rất sâu.

Nội dung bài kinh: Toàn bộ thế giới này chỉ gồm có hai thứ là đối tượng và chủ thể. Do thích mới có cái để thích. Cái để thích chính là năm uẩn, do thích chúng, ta tiếp tục có chúng, tiếp tục sinh tử, lành ít dữ nhiều, buồn nhiều hơn vui.

Sự thích thú chính là tham, đối tượng thích thú chính là năm uẩn. Còn thích thú trong năm uẩn thì sẽ tiếp tục có năm uẩn mới, tiếp tục hành trình sinh tử mới. Đời nào kiếp nào sanh ra cũng thấy mình ngon lành hết, dù là một con dòi trong đống phân hay ông hoàng trong cung điện hay thằng điên trên đường phố. Điên cũng có cái thích cái ghét. Dù mình là ai đi nữa, suốt đời này cứ chạy theo cái mình thích, khi gặp cái không thích thì bất mãn – ưu, gặp thích thì tham. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Thế Tôn gom gọn phiền não lại thành hai thứ: tham và ưu. . “Ở đây vị tỳ kheo tinh cần tỉnh giác sống quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp tinh tấn chánh niệm diệt trừ tham ưu ở đời”. Suốt cuộc đời, suốt một dòng sinh tử chỉ có thích và ghét. Nếu phân tích chia chẻ rộng rãi – bên dưới thích và ghét – thì có ái, hoài nghi, vô minh, ngã mạn, tà kiến… Ở đây Ngài không nhắc đến, Ngài chỉ nói gọn đời sống này chỉ gồm hai thứ: sự đam mê và đối tượng để mình đam mê. Tùy theo duyên nghiệp mà ta có năm uẩn ra sao và thích cái gì qua đó. Nghĩa là, có người sanh ra đẹp, có người vui nhiều hơn khổ (hạng này hơi hiếm), có người thì xấu, khổ nhiều hơn vui (hạng này hơi nhiều), tùy vào hoàn cảnh mà họ thích cái gì. Con ruồi thích cái mà con ong con bướm không thích. Tôi xuất thân làm thầy chùa từ bé, làm sao tôi thích đánh golf hay sở hữu những chiếc du thuyền. Quý vị chở tôi đi tới chỗ cảnh đẹp thì tôi thích, nhưng đưa tôi chiếc du thuyền để lái thì tôi không thích. Quí vị mà cho tôi những bức danh họa nổi tiếng, biết mắc tiền thì tôi bán liền trong vòng ba giây vì tôi chẳng hiểu gì và cũng không biết thích chúng ở chỗ nào.

VỊ GIỮ GIỚI (Silavantasutta)

“1) Một thời, Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Tôn giả Mahā Kotthika trú ở Bārānasi (Ba-la-nại), tại Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.

Ngài Xá Lợi Phất là Đệ nhất trí tuệ, ngài Mahā Kotthika là Đệ nhất Vô ngại giải rất thường đàm đạo và thuyết giảng.

“2-3) Rồi Tôn giả Mahā Kotthika, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Sāriputta… thưa như sau:

— Thưa Hiền giả Sāriputta, những pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?

“những pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?” nói theo ngôn ngữ của mình là “vị tỳ kheo tu hành ngon lành thì trong đầu thường xuyên nên nghĩ nhiều về cái gì?”. Có giới, nghĩa là ‘không phạm giới’, nhưng ‘không phạm giới’ thì chưa đủ. Không phạm giới nghĩa là không làm bậy, chỉ là mình ‘không thiếu nợ’ thôi. ‘Không thiếu nợ’ chưa đủ, phải làm ra tiền nữa. Có hai cách làm giàu: giữ kỹ số tiền đã có sẵn, và kiếm thêm số tiền mới. Giữ kỹ, kẹo quá không tiêu, lâu ngày cũng có tiền nhiều. Một vị tỳ kheo chỉ giữ giới thôi thì chưa đủ.

Ngài Mahā Kotthika là Đệ nhất vô ngại giải; bốn trí vô ngại của ngài có được là do ngài thường xuyên trao đổi không mệt mỏi. Những gì ngài hỏi không phải là ngài không biết. Theo trong các kinh, giống như ngài Mahākassapa gặp ngài Mục Kiền Liên là hay hỏi, ngài Mục Kiền Liên gặp ngài Xá Lợi Phất là hay hỏi, thậm chí ngài Xá Lợi Phất gặp ngài Ānanda, cũng hỏi. Bởi vì các ngài sống chìm sâu trong pháp, nên khi gặp nhau chỉ làm hai việc, hoặc cùng nhau im lặng để thiền định hoặc trao đổi suy nghĩ về Phật pháp với nhau. Tôi không tin ở trong room này có ai tha thiết với Phật pháp đến mức như vậy. Một người tha thiết với Phật pháp có thứ niềm vui mà không phải ai cũng có, đó là đem vấn đề giáo lý ra hỏi người trước mặt mình xem họ nghĩ ra làm sao. Cảm giác đó sung sướng lắm. Nếu bây giờ tôi gặp được một người như sư Giác Nguyên, tôi sẽ hỏi từ sáng đến tối. Rất tiếc là những người tôi gặp từ châu Âu cho đến bên Mỹ, khi gặp toàn nói chuyện tào lao, khi xa tôi rồi thì bóc phone hỏi đạo, hỏi giáo lý, còn lúc ở chung nhà, hai cửa phòng cách nhau có một thước mà chẳng bao giờ hỏi. Tôi chưa bao giờ nói tôi giỏi, tôi chỉ lấy làm tiếc, nếu tôi gặp một người giống như tôi thì tôi hỏi miệt mài luôn. Tôi muốn nói rằng, khi mình sống sâu trong Phật pháp, tìm được người để hỏi thì hạnh phúc lắm, giống như người chơi tem, chơi tiền cổ hay bonsai, hoặc dân mê xe; gặp nhau và trao đổi kinh nghiệm, kiến thức thì rất hạnh phúc. Vì không mê nên mình không tưởng tượng được có những kẻ thà bỏ vợ, chớ không bỏ tem, không bỏ đồ cổ. Vương Hồng Sển kể, thời ông còn trẻ, ông mua được cái tô, mê đến mức đem cái tô vào trong mùng. Bà vợ ông chịu không nổi khi buổi tối ông cứ ôm cái tô mà săm soi miết.

Khi ngài Mahā Kotthika hỏi câu trên, ngài Xá Lợi Phất trả lời: Quán chiếu năm uẩn! Một người phàm thường xuyên quán chiếu năm uẩn thì sớm muộn gì, không phải đời này cũng kiếp khác, sẽ chứng quả Dự Lưu. Ngài Mahā Kotthika hỏi thêm: Nếu một vị đã đắc Dự Lưu rồi thì cái gì quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của vị ấy? Ngài Xá Lợi Phất trả lời: Vẫn là chừng đó, thường xuyên quán chiếu.

“4)Này Hiền giả Kotthika, Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.”

Ở đây ngài Xá Lợi Phất dạy phải quán chiếu năm uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.”. ‘Người lạ’ nghĩa là không phải là của mình. ‘Rỗng không’ nghĩa là không cốt lõi, thấy vậy mà không phải vậy nên gọi là ‘rỗng không’.

Tôi không hề có bằng cấp học vị gì hết, nhưng tôi dám nói một câu đại ngôn là không có đời sống nào thông minh và an toàn cho bằng đời sống thường trực quán chiếu năm uẩn. Thông minh là vì không đời sống nào đem lại cho mình sự an lạc, thông suốt cho bằng sự quán sát thường xuyên thân này là như vậy, tâm này là như vậy. Thông minh và an toàn nhất vẫn chính là đời sống của một hành giả Tứ Niệm Xứ. Đó là đời sống quan sát thân tâm mình ra sao để thấy nó luôn thay đổi, buồn nhiều vui ít, luôn đối mặt với vị đắng: thân sẵn sàng gặp nạn, tâm sẵn sàng buồn khổ thất vọng. An toàn nghĩa là với kiểu sống này, mình có thể sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào, và bình tâm trước bất cứ chuyện gì xảy ra; không tiếc nuối, không sợ hãi khi mất mát. Cách đây không lâu, một số người quen của tôi gặp phải vấn đề về danh lợi, quyền lực, nhìn họ thấy thay đổi lớn lắm. Tôi không phải là thánh, có thương lắm tôi cũng không biết chia sẻ bằng cách nào bởi họ sống không có quán chiếu nên rất khổ. Đức Thế Tôn khi đi thăm bệnh, Ngài nhắc đi nhắc lại một câu với người hấp hối: “Đừng thấy năm uẩn này là ngươi, đừng thấy ngươi là năm uẩn này. Hãy luôn luôn nhớ rằng tất cả những sự sợ hãi, tiếc nuối, đau đớn đều là vô thường, đến rồi đi”. Phải có một ngày chúng ta buông hết để mà đi, thưa quí vị. HT Hộ Giác, HT Tâm Châu, HT Giác Nhiên, HT Mãn Giác, HT Huyền Vy, HT Thiên Ân… bao nhiêu vị khi còn sống, tiếng tăm, uy tín, quyền lực, chùa miểu to lớn, khi đi thì không còn gì hết. Cuộc đời các vị vừa kể, đối với tôi là một tượng đài, một trang kinh mỗi lần nhớ đến, tôi ít nhiều cảm thấy sốc. Khi còn trẻ, còn sung sức khỏe mạnh, minh mẫn, các vị ấy đã có những thành tựu đến như vậy mà bỗng chốc một cái buông hết. Quan trọng là cái chết của một hành giả chớ không phải là cái sống của một người không phải hành giả. Nếu hôm nay có người hỏi tôi, trong đời tu cái gì quan trọng nhất. Tôi sẽ trả lời, quan trọng nhất đó là mình có được cái chết của một hành giả, chớ không phải là kiểu sống của một người không phải hành giả. Dù mình có là nhân vật nào ghê gớm đi nữa, nhưng không phải là hành giả thì chỉ đau khổ mà thôi. Và trong bài kinh này, ngài Xá Lợi Phất đã nói rằng, còn là phàm, là thánh thấp thì phải thường xuyên quán chiếu năm uẩn; ngay cả đối với một vị A-la-hán không còn việc gì để làm nữa, thì việc quán chiếu năm uẩn cũng làm cho vị ấy an lạc hơn. “18) Với vị A-la-hán, này Hiền giả, không có gì phải làm nữa, hay không có phải thêm gì nữa trong công việc làm. Nhưng sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.” Cho dù vị A-la-hán sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, gánh nặng sinh tử đã đặt xuống, không còn chuyện gì để làm nhưng vị ấy vẫn luôn thường trực quán chiếu năm uẩn, thấy nó là gánh nặng.

Thường trực quán chiếu năm uẩn để thấy nó là rỗng không, là của nợ, từ đó chuyện gì xảy ra cho nó mình cũng thấy nhẹ, không tưởng tiếc, không sợ hãi, và nhờ vậy có thể sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào.

NGƯỜI ĐA VĂN (Sutavantasutta)

Người có giới hay đa văn đều phải có đời sống giống nhau là thường xuyên quán chiếu mặt trái của năm uẩn. Đó là kiểu sống duy nhất an toàn nhất và thông minh nhất không thể hơn nữa, dù người đó là phàm phu hay A-la-hán, bởi toàn bộ thế giới này ra sao đều tùy thuộc cách nhìn của chúng ta. ‘Chúng ta’ chính là năm uẩn. Đối với thân và tâm này mà chúng ta có cái nhìn thông suốt thì chuyện gì cũng thông suốt. Còn quá coi nặng ‘cái tôi’ thì chuyện gì xảy đến sẽ chịu không nổi.

‘Silavanta’ nghĩa ‘người đức hạnh’ và ‘Sutavanta’ nghĩa là ‘người học thức’ theo nghĩa nhà Phật là am tường giáo lý. Hai hạng người này chỉ có một đời sống được xem là thông minh nhất và an toàn nhất đó là thường xuyên quán chiếu năm uẩn. Tôi không xúi quí vị tò mò tọc mạch đánh giá người khác, tuy nhiên, đối diện với một người tự nhận mình là hành giả, là uyên thâm Phật pháp, là cao tăng, là chân tu v.v…, cái quan trọng nhất là nếu mình muốn ‘quỳ sụp’ (theo nghĩa bóng) dưới chân họ thì phải coi họ có phải là người thường xuyên quán chiếu hay không. Đó là giá trị thật sự của một người tu học! Giá trị thật sự của một người tu học không nằm ở quyền lực, uy tín, tiếng tăm hay chùa miểu, mà chính là khả năng thường xuyên sống quán chiếu năm uẩn. Nhìn qua mà thấy họ sống phóng dật là biết là đồ dỏm rồi.

KAPPA (Kappasutta)

Ngài Kappa hỏi Đức Phật: Bạch Thế Tôn con phải thường xuyên suy tư như thế nào để không phải tiếp tục chấp ngã nữa, vì đời sống của con nặng nề quá, phiền não quá. Bao nhiêu khổ tâm đều đi ra từ sự chấp ngã, thấy tôi là cái gì đó, cái gì đó là tôi, của tôi, vậy làm sao để bỏ được sự chấp ngã như vậy?

Đức Phật trả lời: Vị tỳ kheo phải nhớ rằng, toàn bộ cái gì trong trời đất này dù đó là danh hay sắc, là thân hay tâm; dù ở đời này hay kiếp khác, vũ trụ này hay vũ trụ khác, ở đâu có thân có tâm thì ở đó có khổ, vô thường, vô ngã.

Bài kinh này rất quan trọng, vì nhiều khi người ta cũng còn có mơ hồ nghĩ rằng chỉ trong cõi sa bà này có khổ, có đói nghèo, hận thù tranh giành chớ cõi khác không có; người ta còn tin rằng có cõi nào đó gọi là Cực Lạc, còn có nơi nào đó đáng để mình về. Đức Thế Tôn xác nhận là không. Ngài đã xác nhận: dù bất cứ nơi đâu, trong vô lượng vũ trụ, trong bao nhiêu đời quá khứ, hiện tại, vị lai, xa gần, thô tế, thắng liệt, bất cứ không gian, thời gian điều kiện hoàn cảnh nào đi nữa thì sắc, thọ, tưởng, hành, thức, luôn luôn là do duyên mà có, và có rồi phải mất. Có danh sắc là phải vô thường, làm sao mọi sự có thể tồn tại đứng yên được. Vấn đề lớn nhất của mình là mình không chịu nổi sự vô thường, mình chạy theo cái ngọt và sợ cái đắng. Chính vì không có cái ngọt nào còn hoài nên mới sanh ra khổ. Cái ngọt đó do ba nhân (tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý và môi trường sống) mà có, do ba nhân đó mà mình thích hay không thích. Bản thân chữ ‘thích’ đã có vấn đề. Còn đối tượng mình thích thì hoặc là mình sẽ chán, hoặc là đối tượng đó sẽ bỏ mình mà đi. Tôi không phải là thiền sư, nhưng nhờ nghĩ vậy mà tôi sống được. Tôi cũng thương nhớ, cũng tương tư, nhưng vì khổ quá, thương quá nên tôi phải nghĩ: vài chục năm nữa, tóc họ rụng trụi hết, tay chân lóng cóng ngồi trong nhà già, khi tôi tới thăm thì họ không nhớ tôi, ăn uống thì rớt lên rớt xuống, mắt mũi kèm nhèm… Dù mình có sức khỏe hoàn hảo, danh lợi số một, cuộc đời mỹ mãn đi nữa, mình có sống đến 90 tuổi, thì rồi sẽ ra làm sao? Mới vừa rồi có ông hoàng tử Arab Saudi, đẹp trai, giàu sụ, đứt gân máu chết, mới có 31 tuổi.

Chính vì vậy ngài Kappa mới hỏi như trên và Đức Phật dạy: Cứ luôn luôn nhớ thế này, đừng hy vọng cõi này cõi nọ, đời sau kiếp khác, mà hãy nhớ rằng, tất cả cái gì thuộc quá khứ hay vị lai, tiền tiền vô thỉ, hậu hậu vô chung, xa gần thô tế thắng liệt… hễ danh sắc là luôn luôn vô ngã vô thường.

Kinh Kappa thứ hai cũng y hệt như vậy.

Những bài giảng này được lưu trữ dưới dạng âm thanh trên internet ở địa chỉ sau đây: www.vietheravada.net; bản kinh Pāḷi và Sớ giải từ địa chỉ www.tipitaka.org.
Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app