Bài Giảng Kinh Tương Ưng Tập 3 – Chương 1: Tương Ưng Uẩn – Phẩm Gánh Nặng

Bài giảng Kinh Tương Ưng Tập 3

Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Gánh Nặng

NĂM UẨN LÀ GÁNH NẶNG

‘Bhara’: ‘gánh nặng’, ‘gồng gánh’ (bear)

Gánh nặng của sắc uẩn: Vì có sắc uẩn nên ta phải chịu đựng bao nhiêu thứ hệ lụy từ nó; do có thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng vậy. Chính vì còn có sắc uẩn, vì sống bằng nó, nên mới có cái thích trong đó. Xét về nhân hay quả, sắc uẩn luôn là tiền đề cho những rắc rối. Chính vì có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nên mình phải ăn uống, tắm rửa, giặt giũ, phải có nhà ở; nhà thì phải như thế nào đó, mùa đông có ấm mùa hè có mát hay không; ăn uống thì phải làm sao cho ngon, cho không bịnh, vô hại. Chỉ vì có sắc uẩn này mình mới thích những thứ thuộc về sắc pháp. Hành trình theo đuổi âm thanh, mùi vị này xét về mặt thế gian là bình thường, nhưng đối với một hành giả thì đây là hành trình tang thương, đau khổ. Khi đã theo đuổi thì không có phải kiếm cho có, có rồi tìm cách giữ vì sợ mất. Tôi không phải là hành giả nhưng để trị cơn buồn ngủ tôi chỉ nhớ một chuyện là bật dậy liền, đó là nghĩ đến sự chết. Cách đây không lâu, tôi nghe chuyện những người lớn tuổi không dám ngủ, bởi họ sợ ngủ rồi đi luôn. Rồi những hình ảnh người thân đẩy mình vào bịnh viện và người thân không đi theo mình được nữa, xung quanh mình chỉ còn người xa lạ là y tá bác sĩ. Tiễn nhau ra sân ga phi trường thì còn có cơ hội gặp lại, còn tiễn nhau ở phòng mổ thì khó nói lắm. Có nhiều lý do để mình đi luôn: bịnh nặng quá mình đi luôn hoặc do sự bất cẩn của y tá bác sĩ mình đi luôn. Ở xứ tiên tiến văn minh thì khả năng này hơi ít nhưng ở xứ kém văn minh thì khả năng này rất lớn, bởi vì y đức của họ không được đào tạo kỹ, chưa kể thuốc men cũng có vấn đề; thuốc men là sản phẩm của tham nhũng. Y tá bác sĩ cũng là sản phẩm của một hệ thống tham nhũng; rồi còn họ phải đối diện với người bịnh nhiều năm nhiều tháng, lòng họ chai đi. Họ khám sơ sơ và để theo dõi hoặc mổ gấp khi chưa thật sự cần. Vì vậy chỉ cần nhớ tới sự chết là bao nhiêu sự hôn trầm dã dượi mất liền, bật dậy liền. Vì cái sắc uẩn mà mình phải ăn cơm, uống nước, uống thuốc, tắm rửa, lo y phục, xe cộ…

Gánh nặng về thọ uẩn: vì mình còn sống nặng trong cảm xúc buồn vui. Từ một đứa bé bú bình cho đến một ông già hấp hối cũng chỉ để ý đến một chuyện: cảm xúc, tìm cái nào dễ chịu để thoải mái và bực dọc với cái khó chịu. Người không biết đạo thì thấy chuyện đó là bình thường, còn hành giả thì thấy đúng là gánh nặng. Nếu ngồi yên lắng tâm một tí sẽ thấy cái dễ chịu ít hơn cái khó chịu.

Gánh nặng của tưởng uẩn:

Có nhiều cái biết: cái biết của thức, cái biết của tưởng và cái biết của trí. Cái biết của trí là nhận chân bản chất của mọi sự đang diễn ra là gì, cái biết của thức là mắt chụp hình, tai ghi nhận âm thanh chớ chưa biết đó là cái gì, phần ý thức mới giải quyết phần còn lại. Cái biết của tưởng là dựa trên tất cả những gì dựa trên hồi ức cũ, kinh nghiệm cũ, đời này hay kiếp khác.

Tưởng uẩn là khía cạnh kinh nghiệm của tâm thức trong từng cái biết. Tại sao mình gặp người đó mình vui? Vì mình nhận ra là người quen, người thương; nhìn món đồ đó mình thích vì nó vừa ý mình; cái mùi này là mùi trầm, cái này là mùi rác, cái này là mùi cống…

Thọ, tưởng, hành, thức, luôn đi chung nhau thành một khối tổng hợp. Thức uẩn là tâm. Thọ, tưởng, hành là tâm sở. Tâm và tâm sở luôn đi chung nhau như các cạnh của viên kim cương. Giống như ly nước đá trước mặt: láng, tròn, cứng, lạnh là những khía cạnh có mặt cùng lúc ở một ly nước đá.

Khi mình biết mùi cống, thọ uẩn là khổ, tưởng uẩn biết là mùi cống, hành uẩn lúc đó là tâm sân, thức uẩn chỉ là sự ghi nhận đơn thuần của khứu giác. Sân là vì không chịu nổi cái mùi, chưa kể còn tưởng tượng suy diễn ra chuyện khác. Tưởng uẩn là nhân tố cho những suy diễn tiếp theo cho ta bực mình. Mình đóng thuế cầu đường rồi, năm nào cũng đóng, họ phải lo chuyện đó chớ, mà cuối cùng đường cứ hư, cống rãnh thì hễ cứ mưa ập lên, nước đen ngòm, rác lềnh bềnh. Lúc nghe mùi cống là mình nghĩ đến việc đóng thuế, là nổi bực mình lên, đó là hành uẩn làm việc. Tiến trình tâm thức lúc nghe mùi thơm ta thích cũng vậy. Khi mũi nghe mùi thơm, thức uẩn ghi nhận mùi, tưởng uẩn thì ghi nhận đây là mùi Channel, Versace… và tâm tham xuất hiện. Ghét hay thích cũng do ba nhân (1.Tiền Nghiệp; 2.Bối cảnh hiện tại; 3.Khuynh hướng tâm lý). Gánh nặng là như vậy đó, hành giả khi quan sát, quán chiếu rõ sẽ thấy thì ra cái mình gọi là hạnh phúc hay đau khổ thích hay là ghét, là như vậy đó. Gom chung lại được gọi là năm uẩn, mà mình thì bị nhốt trong đó, vì mình còn phiền não, mình chưa là vị A-la-hán nên cứ tiếp tục đi tới. Hành giả hiểu được điều này nên làm công đức gì cũng mong công đức đó trở thành Ba-la-mật. Ba-la-mật là những thiện pháp hỗ trợ cho sự giác ngộ; khi đang thực hiện thì mài mòn phiền não và sau đó trở thành Ba-la-mật. Lúc đang bố thí là mình đang mài mòn phiền não, mài mòn bỏn xẻn. Ngồi thiền là mài mòn phóng dật, ngã mạn, tâm tham, tâm sân, ích kỷ, nhỏ mọn, ghen tị v.v… Nếu đủ duyên thì đắc A-la-hán ngay đời này, nếu không đủ thì thành Ba-la-mật cho đời sau. Hành giả thứ thiệt là họ thấy từng giây phút có mặt của mắt, tai, mũi, lưỡi là từng giây phút hệ lụy. Bà con ở đây chưa thấy được đâu, cứ gieo duyên, một lúc nào đó lăn đùng ra bịnh thì mới thấy thấm. Bây giờ đang còn trẻ, còn khỏe, còn nhan sắc, tình cảm, tiền bạc, quan hệ xã hội… thì chưa thấy. Tôi mở trang báo mà thấy “Mừng Tết Nguyên Đán” là tôi thấy vô duyên rồi. Tết là chết tới nơi mà đi ăn mừng. Tám tháng Ba là tào lao. Ngày Mother’s Day hay Father’s Day chỉ có giá trị khi nào nghĩ tới chữ Hiếu. Không có cái ngày nào vui hết, ngày nào cũng gợi nhớ mình sắp đi. Noel cho mình nhớ sắp hết năm. Ngày Mẹ ngày Cha cho mình biết năm ngoái đã có ngày này, bây giờ đã qua một năm, giáp năm rồi. Ngó lên tờ lịch mà xé một tờ thì biết một phần cơ thể của mình, một phần sức khỏe, một phần nhan sắc, một phần tuổi thọ đang mòn hao. Xé tờ lịch là biết mình đang xé đi một mảng đời của mình. Gan, phổi, thận, bao tử của mình cũng từ từ có vấn đề, nó phải thay đổi mai mốt mình mới chết được.

Bài kệ ở đoạn 8 đáng được tụng đọc và suy niệm mỗi ngày:

Năm uẩn là gánh nặng,

Kẻ gánh nặng là người;

Mang lấy gánh nặng lên,

Chính là khổ ở đời.

Còn đặt gánh nặng xuống,

Tức là lạc, không khổ…

Ngày nào còn có năm uẩn thì còn vô số những hệ lụy như gánh nặng. Trong Pāḷi có chữ rất hay, ‘Ohitabharo’, có nghĩa là “gánh nặng đã được đặt xuống”. Cứ tưởng tượng mình leo núi, lên dốc, trên tay của mình là năm chục ký, một lúc nào đó mình để được xuống thì đã cỡ nào. Người đắc Tu-đà-hoàn – đã chấm dứt thân kiến – cảm giác sung sướng cỡ nào khi họ nhận ra thì ra năm uẩn là như vậy. Xưa giờ họ sống trong hiểu lầm, giờ cảm giác nhẹ kinh khủng. Quí vị hỏi tôi nhẹ cỡ nào để tôi nói cho nghe. Ví dụ, có người báo cho các vị biết vợ/chồng mình đang ngồi với một người khác phái dáng vẻ thân thiết cực kỳ; bao nhiêu đủ lửa dồn hết lên óc mình. Khi xác định được rằng người ngồi đó không phải là vợ/chồng mình thì cảm giác nhẹ cỡ nào. Hoặc mình nghe nói có cái xác chết trôi sông mà người thân mình đi hai ngày nay không liên lạc được. Khi mình chạy tất tả tới nơi thấy không phải là người thân của mình thì cảm giác nhẹ cỡ nào. Hốt hụi về sáu mươi tám triệu trong túi mất tiêu, tìm trước tìm sau tìm trên tìm dưới tìm trong tìm ngoài không thấy. Ngay lúc đó có một cú điện thoại của đứa con gọi báo là không thấy ai nên đút cục tiền dưới sàn. Cú phone này y hệt như câu pháp ngài Xá Lợi Phất nghe ngài Asajji nói: Vạn pháp do duyên mà có, do duyên mà mất. Thế Tôn đã nói rõ nhân duyên sanh và diệt đó. Ngài vừa nghe xong cảm giác nhẹ y hệt như người mẹ nghe phone đứa con báo đã cất cục tiền dưới sàn. Tạm ví dụ vị Tu-đà-hoàn cũng nhẹ như vậy, hồi giờ họ nghĩ “cục nợ mấy chục ký” này là của họ, đùng một phát họ phát hiện đây không phải là của mình, không phải như mình tưởng, thì nhẹ cỡ nào. Cảm giác nhẹ đi trong những ví dụ của tôi chỉ là một phần tỷ so với cảm giác của vị Tu-đà-hoàn thôi, bởi họ đã buông sạch. Vì vậy trong kinh nói khi một vị thành Phật rồi, vị đó có thể nhịn ăn suốt bảy tuần lễ, an lạc không thể tưởng nổi, Ngài có thể nhịn lâu như vậy bởi vì hạnh phúc quá lớn, buông hết và thấy hết không sót thứ gì trong cõi đời này. Ngài thấy xứng đáng với bao nhiêu công khó tu hành của mấy chục đại kiếp, cũng là lúc thấy được gánh nặng đã được đặt xuống.

LIỄU TRI, THẮNG TRI

*Chứng thánh chỉ là thay đổi nhận thức

‘Pariññā’: liễu tri

‘Abhijānana’: thắng tri

Năm uẩn cần phải được thắng tri, cần phải được liễu tri.

Thắng tri gồm có 3. Có ba cái biết đối với năm uẩn:

1. 1. Ñāta: biết rõ đây là danh, là sắc.

2. 2. Tīraṇa: biết rõ đây là sự vô thường, khổ, vô ngã của danh sắc.

3. 3. Pahāna: cái biết đủ để chấm dứt phiền não (tùy tầng thánh mà chấm dứt được bao nhiêu).

Hành giả buổi đầu, Hành giả buổi đầu, Ñāta,chỉ biết phân biệt được danh là gì, sắc là gì, đất ra sao, nước ra sao…; tham ra sao, sân ra sao…; buổi đầu chỉ biết hơi thở ra, hơi thở vô; hơi thở là sắc pháp; tâm biết hơi thở là danh pháp. Qua đến giai đoạn hai chỉ biết phân biệt được danh là gì, sắc là gì, đất ra sao, nước ra sao…; tham ra sao, sân ra sao…; buổi đầu chỉ biết hơi thở ra, hơi thở vô; hơi thở là sắc pháp; tâm biết hơi thở là danh pháp. Qua đến giai đoạn hai Tīraṇa là sự thấm thía đến tận cùng, biết rõ đây là sự vô thường, thấy rõ đây là sự vô thường của hơi thở, sự vô thường của tâm biết hơi thở; đây là sự vô thường của tâm tham, đây là sự vô thường của tâm si, thấy rõ ràng như vậy; cái biết này kéo dài một thời gian lâu mau, dài ngắn tùy người. Giai đoạn ba là sự thấm thía đến tận cùng, biết rõ đây là sự vô thường, thấy rõ đây là sự vô thường của hơi thở, sự vô thường của tâm biết hơi thở; đây là sự vô thường của tâm tham, đây là sự vô thường của tâm si, thấy rõ ràng như vậy; cái biết này kéo dài một thời gian lâu mau, dài ngắn tùy người. Giai đoạn ba Pahāna, cái biết này đủ mạnh để cắt đứt phiền não. Tùy tầng thánh mà cắt tới đâu. Ví dụ tầng thánh Tu-đà-hoàn thì cắt được thân kiến, hoài nghi. Về giới cấm thủ thì trong kinh kể thì mình nhắc vậy thôi. Trong kinh nhắc đến giới cấm thủ chớ thật ra người không còn thân kiến thì làm gì còn hoài nghi, làm gì còn giới cấm thủ. Nhắc đến giới cấm thủ là nhấn mạnh Đạo đế. Đạo đế là con đường thoát khổ y cứ theo tinh thần Bát Chánh Đạo. Giới cấm thủ là lối hành trì nằm ngoài Bát Chánh Đạo và (lý tưởng là) không hướng đến Niết bàn. Từ bỏ thân kiến là không còn thấy thân tâm, năm uẩn này là ta, của ta nữa.

Như vậy Như vậy hành trình tu tập của hành giả chỉ là hành trình nhận thức qua từng giai đoạn:

1. Nhận diện danh sắc.

2. Soi rọi Tam tướng của chúng.

3. Cái thấy rốt ráo đủ để chấm dứt phiền não.

Tôi đã ví dụ nhiều lần về cái thấy rốt ráo đủ để chấm dứt phiền não. Tôi nghe quí vị nói xấu tôi, tôi nổi sùng lên, và biết bao nhiêu người giải thích, can gián, chứng minh, và lòng tôi cũng tạm yên rằng đó là chuyện hiểu lầm. Nhưng đó chỉ là ‘tạm’ thôi. Cho đến khi nào chính tôi coi lại đoạn phim liên quan đó, và thấy rõ ông đó đang nói, câu này bị người ta vô tình hay cố ý hiểu sai và kể lại cho tôi nghe. Khi tôi nghe và thấy tận mắt thì cái biết này đủ cắt đứt cơn giận của tôi. Còn những lời giải thích của quí vị cỡ nào cũng chỉ là nghe thôi, một cái biết vay mượn từ người khác, chỉ đến khi đích thân tôi coi tận mắt. Hoặc có người nói, thằng Tèo đốt nhà của anh rồi. Khi mình về tới nơi, tận mắt thấy không có, cái nhà mình còn nguyên, thì cái thấy nàymới đủ cắt tâm sân của mình, chứ còn chưa thấy cái nhà mình còn nguyên thì chưa có yên. Quí vị sẽ nói, đắc quả đơn giản vậy sao? Đúng! Khó thiệt, nhưng rất đơn giản. Tôi đã ví dụ nhiều lần về cái thấy rốt ráo đủ để chấm dứt phiền não. Tôi nghe quí vị nói xấu tôi, tôi nổi sùng lên, và biết bao nhiêu người giải thích, can gián, chứng minh, và lòng tôi cũng tạm yên rằng đó là chuyện hiểu lầm. Nhưng đó chỉ là ‘tạm’ thôi. Cho đến khi nào chính tôi coi lại đoạn phim liên quan đó, và thấy rõ ông đó đang nói, câu này bị người ta vô tình hay cố ý hiểu sai và kể lại cho tôi nghe. Khi tôi nghe và thấy tận mắt thì cái biết này đủ cắt đứt cơn giận của tôi. Còn những lời giải thích của quí vị cỡ nào cũng chỉ là nghe thôi, một cái biết vay mượn từ người khác, chỉ đến khi đích thân tôi coi tận mắt. Hoặc có người nói, thằng Tèo đốt nhà của anh rồi. Khi mình về tới nơi, tận mắt thấy không có, cái nhà mình còn nguyên, thì cái thấy nàymới đủ cắt tâm sân của mình, chứ còn chưa thấy cái nhà mình còn nguyên thì chưa có yên. Quí vị sẽ nói, đắc quả đơn giản vậy sao? Đúng! Khó thiệt, nhưng rất đơn giản. Chứng thánh chỉ là thay đổi nhận thức. Đừng có nghĩ rằng lúc đó hào quang xẹt, cơ thể nhẹ bổng nhấc lên khỏi mặt đất, lìa khỏi trọng lực sứt hút của trái đất. Không có! Vẫn là con người bình thường y hệt như trước, vẫn hôi rình y chang như vậy, chỉ có thay đổi nhận thức, không còn tiếp tục thấy vấn đề như trước đây nữa, như bao nhiêu tỷ tỷ đại kiếp mình đã thấy. Với ba cái biết ñāta, tīraṇa, pahāna này đủ để đoạn trừ phiền não, không còn tiếp tục thích và ghét nữa, nhưng ở cấp độ Hữu học, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thì chưa rốt ráo, chưa dứt khoát, chưa toàn triệt trăm phần trăm. Lên tới quả vị A-la-hán thì mới rốt ráo. Trong kinh ví dụ như là người đi trong bóng đêm mịt mùng, đang dò dẫm mò mẫm, trời chớp lên một cái và vị ấy nhìn thấy phía trước có hồ nước, có nhà cửa… bằng ánh sáng của tia chớp. Đó là cái thấy của vị Tu-đà-hoàn, còn mình thì hoàn toàn không thấy gì hết. Nãy giờ quí vị chỉ đang nghe một anh mù nói chuyện về con đường trước mặt của quí vị, mà quí vị cũng đang đui, chúng ta lại cùng nhau đi trong bóng đêm. Mai này khi chứng Tu-đà-hoàn quí vị sẽ thấy qua ánh sáng của tia chớp, nhá lên rồi mất, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa hết.

Nội dung bài kinh Thắng Tri: Khi không có đủ ba nhận thức trên (ñāta, tīraṇa, pahāna) thì ta tiếp tục sinh tử.

DỤC THAM

Khi biết rõ năm uẩn là vậy thì cũng hiểu thêm rằng còn thích thú trong sự hiện hữu của chúng thì còn đầu tư tái sinh, tức còn khổ. Tôi nhắc lại chữ khổ lần nữa.

Ác nghiệp dẫn đến sa đọa. Thiện nghiệp đưa ta đi bao xa và bao lâu rồi cũng phải trở về đơn vị gốc. Dục giới là đơn vị gốc của Tam giới. Bốn cảnh khổ là đơn vị gốc của Dục giới, vì phiền não là chốn về căn bản của phàm phu.

“Gốc” nghĩa là không cần làm gì hết, cứ ngồi yên là rớt ngay Dục giới, giống như gốc cây, là chỗ duy nhất của một cội cây mà muốn có mặt thì cứ lê cái mông đến ngồi phịch xuống là xong. Trong khi muốn lên trên các cành nhánh thì phải nỗ lực. Không cần nỗ lực gì hết là có mặt ở cõi Dục giới rồi. Và trong cõi Dục giới nếu không có nỗ lực gì hết, muốn sao làm vậy thì rớt vô bốn cõi Khổ. Tại sao? Vì phiền não là chốn về của phàm phu. Khi trái đất quay thì những gì nặng có khuynh hướng rút vào tâm. Hoặc khi mình nấu ăn, khuấy ly nước thì cái gì nặng, cặn sẽ đi về chỗ thấp nhất. Cơm trong nồi ở dưới đáy thường có cát là vì vậy.

Hôm nay mình còn vui, còn thích thú trong năm uẩn mình chưa thấy khổ, không thấy năm uẩn là gánh nặng, không thấy rằng niềm đam mê thích thú trong năm uẩn là mầm họa. Mai này, lúc nào đó, khi có va chạm bị sốc rồi mới thấy nếu ngày xưa đừng thích nhiều quá thì bây giờ đâu có khổ dữ thần như vậy. Thích càng nhiều thì khổ càng nhiều. Tôi thưa thiệt với bà con, cho tới bây giờ tôi nhìn một người Phật tử ở đây mà tôi còn lạnh xương sống. Thông minh cực kỳ, học giỏi cực kỳ, nhưng khi có con rồi thì hình như …. ngu cực kỳ. Tôi nói quí vị không tin đâu nhưng ai làm mẹ thì tin. Nhân vật này khi bàn về mấy vị tiền bối mà tôi kính ngưỡng (ví dụ như ngài Ajahn Chah, ngài Mahasi, ngài Ledi) thì có những nhận xét khách quan, khách quan đến nỗi gần như phạm thượng. Nhưng đặc biệt khi nói về con của mình thì không, luôn luôn đứa con là đỉnh cao trí tuệ. Đây là một nhân vật thuộc loại điển hình của vô minh. Thông minh như vậy mà lại mê con, mê đến mức mô tả về con như Chánh Đẳng Chánh Giác. Chỉ vì dục ái mạnh quá, nên giống như mất trí vậy; như khùng có trình độ, có bằng cấp vậy. Đi đứng sinh hoạt thì bình thường nhưng nhắc đến đứa con thì quýnh quáng, nói tầm bậy liền. Tôi chưa gặp ai mê tiền, mê danh, mê lợi đến như vậy, nặng tình cảm đến như vậy. Tôi chỉ còn chờ một ngày nào đó người này nói con mình đi vệ sinh cũng thơm mà thôi. Tôi kể ra ở đây để nói rằng dục ái dễ sợ lắm, quá sức dễ sợ. Người Mỹ họ gặp mình ăn mắm thì họ ớn cỡ nào, trong khi mình thấy mắm thì khoái. Mình gặp phô mai nặng mùi của Pháp thì mình chịu không nổi trong khi Tây lại khoái. Đó là dục ái, nó làm cho mình u mê dữ thần như vậy. Vì vậy, một vị chứng thánh, họ nhìn lại mình họ nổi da gà, lạnh xương sống, mà mình thì không thấy.

Những bài kinh sau cũng y hệt vậy, không cần phải giải thích nữa.

VỊ NGỌT

‘Assāda’: ‘vị ngọt’. Bài kinh này rất là sâu

Vị ngọt ám chỉ khía cạnh hấp dẫn. Đức Phật xác nhận ngày xưa khi còn là cư sĩ, ngài từng đi tìm vị ngọt. ‘Tìm’ nghĩa là ngài để ý, quan sát, quán chiếu, suy tư. Khi ngài ăn giống như mình, ngài suy nghĩ, thì ra ngon là như vậy đó sao. Tây có câu: “Cơn đói là đầu bếp tốt nhất”, đói thì ăn cái gì cũng ngon. Ngài để ý thấy cái gọi là ‘mùi thơm’ là như vậy. Trong bài viết “Trái mít xứ người” của tôi, mùi thơm chính là mùi tử khí của trái cây. Khi trái còn xanh, còn “trẻ trung” khi bắt đầu thơm chính là mùi tử khí. Mùi thơm trái cây chính là mùi của người già sắp chết. Trái mít còn non thì không có mùi, nhưng khi có mùi thơm thì nó sắp ‘đi’ rồi. Hoa cũng vậy, khi mới còn nụ thì đâu có thơm, nhưng khi hoa đã nở mãn khai, mùi thơm bát ngát thì nó sắp tàn rồi. Con người cũng vậy, khi đạt đến viên mãn thì cũng sắp đi rồi. Thí dụ mình còn trẻ, còn nhan sắc nhưng đâu có sự nghiệp, có bằng đại học xong thì mở văn phòng, phòng mạch, có mái ấm, có con khôn, khi con cái bắt đầu vào đại học, mọi thứ trông có vẻ hoàn hảo. Nhưng khi con mình vào đại học thì có nghĩa mình cũng xấp xỉ bốn mươi. Tài sản tiền bạc đạt kha khá thì mình cũng phải năm mươi. Dưới năm mươi hiếm có ai sự nghiệp như ý. Giống như đóa hoa mà màu sắc mùi hương hoàn hảo thì sắp đi rồi. Non nớt thì không có gì để nói, hễ chín muồi thì sắp đi.

Cái thấy của Ngài có nhiều giai đoạn: Giai đoạn 1 là sau khi nhìn thấy bốn cảnh động tâm rồi xuất gia. Giai đoạn 2 là lúc chứng trở lại các tầng thiền trước đêm thành đạo. Giai đoạn 3 là lúc thành đạo. Giai đoạn 3 của Ngài có đủ 3 trí vừa kể ở trên. Mình khá lắm thì chỉ có được cái thấy như Ngài thấy lúc đi dạo ở bốn cửa thành. Nếu mai nay đi tu thiền thì thấy thêm chút đỉnh. Không học đạo thì không biết gì. Những cái biết về lý thuyết sẽ có ảnh hưởng xấu đến việc thực hành Tứ Niệm Xứ. Nhiều người sẽ thắc mắc vì sao cái biết lý thuyết sẽ ảnh hưởng xấu, rồi sẽ nghĩ rằng không cần học. Khi mình học mình sẽ thấy rõ ràng tuệ đó là Tuệ sợ hãi; khi quán chiếu danh sắc sẽ thấy mình chết đầu hôm sớm mai, chết trong từng hơi thở, tâm kinh hoàng giống như thấy cái chết trước mặt. Nếu có thầy bạn kèm cho mình không bỏ cuộc thì mình sẽ đi đến giai đoạn hai là Tuệ chán nản, mình sẽ muốn buông, kể cả chuyện tu thiền mình cũng thấy nó là sự lặp đi lặp lại của danh sắc rồi mình chán. Nếu có thầy bạn kèm qua được giai đoạn đó tới Hành xả tuệ thì sẽ khác đi. Khi học lý thuyết như vậy, một lúc nào đó ngồi thiền mình sẽ hoảng sợ, thấy danh sắc phù du mong manh, rồi nhớ bài đã nghe, lại nghĩ mình đắc rồi. Người không biết gì có cái lợi là không bị kẹt, nhưng khổ cái không biết gì thì có thể bỏ cuộc. Mọi sự chỉ trông đợi vào Ba-la-mật của quí vị.

VỊ NGỌT (2)

Bài kinh Vị Ngọt tiếp theo cũng ý nghĩa như vậy. Vị ngọt là khía cạnh hấp dẫn của 5 uẩn. Sự nguy hiểm (ādīnava) phải hiểu là bề trái của 5 uẩn, chính là sự vô thường của chúng. Cái bông thấy đẹp nhưng khi khô đi thì mình thấy nó vô duyên. Thức ăn cũng vậy, khi no rồi thì mình thấy mệt. Rồi lúc đó mình nhận ra cái này tanh, cái này độc, cái này nguội lạnh, cái này có mùi. Mọi thứ đều có lúc vô thường. Tâm vô thường, cảnh vô thường hoặc cả hai vô thường. Đức Phật nói, nếu không thấy bề trái đó thì làm sao ly dục, lìa bỏ rồi giải thoát.

Nếu thật sự trong room này là những người có lòng cầu đạo giải thoát thì nhớ tâm niệm một điều: Ta không thể đi xa trong Phật pháp được nếu ta không thấy được sự hiện hữu ở đời là khổ, và không phải thấy đời là khổ thì mình trở thành một người sống bi quan. Nhiều người cứ nghĩ rằng khi nhắc đến, suy tư về những cái khổ này thì đời mình sẽ u ám. Không phải vậy. Lúc đó mình sẽ ngộ ra một chuyện thú vị: Khi nhận diện bản chất mong manh của đời sống thì cũng là lúc mình sống vui vẻ, thanh thản an lạc. Cái an lạc này không hề giống với an lạc của một người mù tịt, yêu đời trong mù quáng. Người có tu tập sẽ thấy chính cái biết này cho mình trạng thái tâm trưởng thành, thanh thản. Lỡ như chuyện xấu (già, bịnh, chết) có xảy đến họ vẫn tiếp tục thanh thản vì họ đã biết trước những điều này từ lâu, đã quan sát trong từng ngày. Lúc đó mới ngộ ra sự quán chiếu vô thường hay như vậy. Người lớn đứt tay không khóc như đứa bé vì từ lâu họ biết “chơi dao có ngày đứt tay”, còn con nít khóc vì không ngờ bị chảy máu, bị đau như vậy.

Kinh Hoan Hỷ cũng y hệt như vậy.

SANH KHỞI (Uppadasutta)

Nội dung ngắn gọn: Sự xuất hiện của năm uẩn chính là sự xuất hiện của các khổ. Làm ơn ôn lại giùm năm uẩn là gì. Chính vì sự có mặt của tấm thân này mà dẫn đến biết bao nhiêu hệ lụy. Chính vì sự xuất hiện của đời sống tâm lý này mà chúng ta có nỗi khổ niềm, vui. Vui luôn ít hơn khổ vì tâm ác luôn nhiều hơn thiện. Cái gì có cũng do nhiều duyên, có rồi phải bị mất. Ác mạnh hơn thiện thì quả xấu nhiều hơn quả lành.

CỘI GỐC CỦA ĐAU KHỔ (Aghamūlasutta)

Aghamūla’: Nguồn gốc của khổ nạn.

Tất cả khổ nạn trên đời này giống như bầy ruồi theo đuổi xác chết trôi sông. Cái xác đó còn lềnh bềnh trên nước thì ruồi còn có chỗ bám. Phải đem chôn thì mới yên. Tất cả những cái khổ trên đời này đều phải dựa vào năm uẩn mà ra.

HOẠI PHÁP (Pabhaṅgusutta)

Pabhaṅgusutta (Kinh Hoại Diệt) giống hệt như kinh Nirodha đã học sáng nay. Năm uẩn do duyên mà có. Ngay trong nhân duyên của sự có mặt đã ngầm chứa cái nhân duyên của sự biến hoại. “Trong hạnh ngộ đã có mầm chia ly” là như vậy đó. Voltaire có câu: “Lẽ ra không nên khóc khi một ông già chết mà hãy khóc ngay khi đứa bé chào đời”. Bởi vì, ngay trong sự chào đời của đứa bé đã chứa sẵn cái chết của một ông cụ bà lão.

Nội dung bài học sáng nay: Tại sao năm uẩn là gánh nặng? Năm uẩn là chỗ gặp mặt của hạnh phúc và đau khổ. Đau khổ là gặp phải cái mình không muốn, hạnh phúc là có được cái mình thích. Bản chất của cái mình ghét và cái mình thích đơn giản là đến từ ba nhân.

Với người không học đạo, cái khổ đày đọa họ trực tiếp, cái vui gieo mầm khổ gián tiếp. Ví dụ có nhan sắc, có mái ấm như ý thế là chuyện tu tập quán chiếu thôi để kiếp sau; lâu lâu phấn son chút đỉnh rồi đi làm từ thiện, làm phước cúng dường, chụp hình quay phim, khoe trên facebook. Thật ra khi ngồi nhìn kỹ, lúc mình đi làm thiện thì có cả đống bất thiện trong đó. Có những cái biết đủ làm thay đổi cuộc đời của mình:

(1) Biết rõ về cái chết: biết mình sẽ chết lúc nào, kiểu gì, chết ở đâu (biết thêm đám tang sẽ ra sao, ai buồn thật sự)

(2) Biết rõ thiên hạ nghĩ gì về mình: biết điều này chắc sống không nổi. Mình chẳng qua sống nhờ cái tưởng tượng, hy vọng hão huyền chớ thiên hạ thật sự thương quý mình không nhiều lắm đâu. Tôi thấy Phật tử nữ vô chùa tay bắt mặt mừng đãi bôi, hỏi thăm “tôi trông bà dữ lắm, gặp bà tôi vui lắm”… Tôi biết họ ghét nhau dữ lắm. Đàn ông không thích thì thôi, chỉ chào thôi. Còn các bà thì đi kể chuyện gia đình khoe con khoe cái. Trên đời này không có chuyện gì vô duyên cho bằng đem kể chuyện của mình cho người khác nghe rồi mong rằng người ta sẽ chia vui với mình. Hổng dám đâu, sao mà u mê dữ thần vậy. Già đầu còn dại có cháu ngoại còn ngu là chỗ đó.

(3) Biết rõ ràng nếu tiếp tục như vậy ta sẽ tái sinh về đâu.

Thật ra chỉ cần một trong ba cái biết trên cũng đủ làm thay đổi cuộc đời mình.

Những bài giảng này được lưu trữ dưới dạng âm thanh trên internet ở địa chỉ sau đây: www.vietheravada.net; bản kinh Pāḷi và Sớ giải từ địa chỉ www.tipitaka.org.
Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app