Bài Giảng Kinh Tương Ưng Tập 3 – Chương 1: Tương Ưng Uẩn – Phẩm Hoa

Bài giảng Kinh Tương Ưng Tập 3 

Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Hoa

BỌT NƯỚC (tt)

Bà con hoan hỉ mở lại bài kinh tiếng Việt giùm. Trong bài kinh Bọt Nước đoạn 15, gồm có bảy đoạn kệ. Nhiều khi tôi nhắm tới nội dung chính của kinh trước, có những chi tiết mà tôi dành để nói sau nhưng lúc kết thúc buổi giảng thì lại quên luôn.

“Sắc ví với đống bọt,

Thọ ví bong bóng nước,

Tưởng ví ráng mặt trời,

Hành ví với cây chuối,

Thức ví với ảo thuật,

Ðấng bà con mặt trời,

Ðã thuyết giảng như vậy.”

Bài kệ số 2:

“Nếu như vậy chuyên chú,

Như lý chơn quán sát,

Như lý nhìn các pháp,

Hiện rõ tánh trống không.”

Nếu như đọc Kinh Tạng quen thì không có gì nhưng đọc không thường thì hơi tối nghĩa, đặc biệt là đoạn kệ thứ ba.

“Ðấng bà con mặt trời”, tiếng Pāḷi là ‘adiccabandhu’, một từ đồng nghĩa với chữ ‘Phật’ (Buddha). Trong văn hóa ngôn ngữ của Ấn Độ xưa, cũng có điểm giống với Tàu. Tôi không có nói là ai bắt chước ai. Mình thì lại giống Tàu. Trong tiếng Việt, để diễn đạt thân thế của một con người nhiều khi người ta dùng các khái niệm như: ‘thiên tử’ (vua) là con trời; hoặc ‘con ông cháu cha’, ‘gốc bự’, ‘gốc lớn’. Ấn Độ xưa cũng dùng cách nói như vậy khi mô tả nhân vật nào đó. Trong suy nghĩ dân gian của người Ấn xưa, mặt trời là thiên thể số một trong vũ trụ, và Đức Phật được xem là người có liên hệ số một. Cũng giống như người Nhật, họ cho rằng tổ tiên của họ là: ‘amaterasu’, nghĩa là “thái dương thần nữ”, từ đó lá cờ Nhật có mặt trời màu đỏ nằm trên nền trắng. Hoặc mình thì rất thích biểu tượng con rồng vì mình là ‘con rồng cháu tiên’.

Đoạn thứ ba là cơ hội để ta thấy xem kinh điển không thể y cứ 100% vào bản dịch của người khác, vì nếu như vậy, một là mình hiểu lầm, hai là mình không hiểu. Có hai trường phái: Trực dịch và Diễn dịch. Trực dịch là dịch từng chữ không bỏ sót, nghe rất kỳ. Ví dụ ở Mỹ có món hotdog. Món này không dính líu gì con chó hết. Món thứ hai là rootbeer. Chữ ‘beer’ này không dính líu gì món lave dân nhậu uống hết, mà là xá xị. Nếu dịch ra thành ‘bia gốc’ thì không đúng. Bên China có món ăn tên là “hòa thượng trèo tường”, người ta nói ngon đến mức ông tu sĩ trong chùa phải lén nhảy tường để đi ăn, nghe vậy đừng tưởng có tàu hủ nhang khói hay chùa miểu gì trong đó.

“3) Bắt đầu với thân này,

Bậc Ðại Tuệ thuyết giảng,

Ðoạn tận cả ba pháp,

Thấy sắc bị quăng bỏ.”

Đoạn 3 phải hiểu như thế này, Đức Phật dạy rằng phải quán xét năm uẩn, bắt đầu với cái thân. Mỗi người thấy mình là quan trọng, là cái gì đó trong trời đất vũ trụ, thật ra chỉ cần bỏ đi ba ‘thứ’ (‘dhamma’: thứ, món, vật)- ba thứ đó là: tuổi thọ, thân nhiệt, tâm thức thì không còn gì.

Ngài dạy phải quán tưởng năm uẩn, đầu tiên là Sắc uẩn và sắc uẩn trong trường hợp này là cái thân của mình, từ đó mới quán chiếu ra Sắc bên ngoài. Sắc uẩn ở đây chỉ cái thân của mình, chỉ cần mất đi ba thứ là không còn là gì hết. Mình thương cha mẹ con cái thân nhân của mình đến mức nào đi nữa, mới cách đây hai phút, mình còn ôm ấp trong tay, chỉ cần phát hiện ra họ đã tắt thở, thì dù chí thân chí ái cách mấy là mình đã bắt đầu ngại rồi. Chuyện ôm ấp như hồi nãy là ngại rồi. Nếu trong nhà chỉ có hai người, mà mới hai giờ sáng mình phát hiện ra người kia giờ chỉ còn là cái xác, thì mình tính sao đây. Tôi nhớ hoài một chuyện, chuyện cười mà cười không nổi. Một ngày kia có anh du khách lỡ đường xin qua đêm ở một căn nhà nông thôn hẻo lánh. Ông chủ nhà nói: nhà chỉ có ba phòng thôi, vợ chồng tôi một phòng, cậu vô ở một phòng nhưng nhớ tối là ở yên không đi đâu. Anh ta đồng ý, tối ngủ một giấc, sáng hôm sau thức dậy mới biết, nếu như người ta là anh ta gặp chuyện lớn rồi. Căn nhà đó có ba phòng, một phòng dành cho hai vợ chồng chủ nhà, phòng thứ hai của cô con gái, phòng thứ ba chứa đồ, kê cái ghế bố cho anh ta ngủ. Sáng hôm sau anh ta mới biết cô gái đã chết hôm trước, nhà hẻo lánh mà có lòng giúp người nên họ cho ta anh ngủ và chủ nhà không muốn anh ta phát hiện trong nhà có xác chết nên không nói, để sáng mai hẵng tính. Tôi đọc không cười nổi mà rùng mình. Khi một người đã chết rồi thì tình hình thay đổi hết trong khi cái chết rất đơn giản: thọ mạng chấm dứt, thân nhiệt không còn nữa và tâm thức lìa bỏ. Trong Phật pháp không có chuyện linh hồn lìa xác này rồi nhập vào chỗ nào đó để tiếp tục luân hồi. Một tâm thiện hoặc bất thiện xuất hiện lên thì sẽ âm thầm tạo ra tâm tái tục cho kiếp sau. Ngay bây giờ thì chưa có, nhưng khi đến lúc quả nghiệp chín muồi thì tâm đó sẽ có mặt để đi tái sanh về chỗ này chỗ kia. Ví dụ tôi là thằng ăn cướp, cả đời tôi chỉ sát nhân cướp của, không tu hành gì hết nhưng một thiện nghiệp nào đó từ rất xa xưa của tôi, tâm thiện đó tạo ra một quả tái sinh cho tôi, quả đó trổ lúc nào không biết. Ngay đêm nay tuổi thọ của tôi mãn, nhằm ngay lúc quả lành ngày xưa trổ, nên tuy một đời ăn cướp nhưng đêm nay sau khi tôi tắt thở, ngay lúc đó nghiệp nào của quả khứ chín muồi thì tôi sẽ ra đi tái sanh vào cảnh giới mới với sự tác động của nghiệp đó. Lúc đó có một tâm tái tục xuất hiện, nó chỉ tồn tại trong một sát na, đưa tôi tái sinh vào cõi nào đó, rồi nó biến mất. Tôi tiếp tục sống đời sống mới. Hoặc tôi tu cả đời trong sạch tinh tấn, nhưng nếu đêm nay tôi tắt thở nhằm lúc quả bất thiện nào đó trổ thì tôi sẽ ra đi với quả bất thiện đó và tái sinh vào cảnh giới thấp kém, đau khổ, sa đọa, bằng cái tâm tái tục bất thiện. Ở đây không có chuyện một cái tâm nào đó đi ra từ thân này giống như trong kinh Veda của Ấn Giáo mô tả, họ nhìn nhận có cái tôi, cái ta, cái linh hồn; chết rồi thì như con chim bỏ lồng cũ bay sang cái lồng mới.

4) Thân bị quăng, vô tri,

Không thọ, sức nóng, thức,

Bị quăng đi, nó nằm,

Làm đồ ăn kẻ khác.”

‘parabhatta’: đồ ăn kẻ khác (food for others)

āyu’: thọ mạng, ‘usmā’: thân nhiệt, ‘viññāṇa’: thức

Khi mình còn sống, mình là ông này, bà nọ, cô kia, mình bỏ tiền ra làm tóc, làm móng, mua đồng hồ, nữ trang, áo quần, mắt kính v.v… nhưng khi chết rồi thì thân mình còn lại là một cục protein. Con người không ăn thịt người chớ mình cũng giống như con cá con tép vậy thôi, cũng là một ‘con thịt’ trong thiên nhiên như con này con kia. Vì mình còn sống trong xã hội nên có pháp luật bảo vệ chớ mình vô rừng thì cũng giống như con thỏ con sóc. Khi còn sống thì mình còn thấy mình ngon lành, nhưng khi mình chết thì thân mình cũng chỉ như là một miếng mồi cho biết bao nhiêu chúng sanh (trùn, dế) khác. Chính chú giải kinh này xác định tâm ta mỗi phút sanh diệt hàng triệu lần.

“ekaccharakkhane kotisatasahassasankha uppajjitva nirujjhati”: trong thời gian mỗi búng tay, tâm sinh diệt hàng triệu sát na.

‘parabhattam’: ‘làm thức ăn cho loài khác’. Chú giải giải thích: “kimiganadinam bhattam hutva”: làm thức ăn cho trùn dế và các loại khác. (‘kimi’: trùn, worm). Đọc kỹ ở đây mình mới thấy ớn, cái thân này khi còn sống mình lo lắng chăm chút cho nó, làm móng làm tóc; lo lắng sao da mình tối sao da mình trắng… tới hồi lăn đùng ra chết nếu không đem đi thiêu mà nằm trên mặt đất hoặc vùi sâu trong huyệt mộ thì chỉ là miếng mồi của trùn dế. Nhà giàu ngày xưa thì họ đổ nhựa thông vào quan tài để bảo vệ xác khỏi sự tấn công của côn trùng nên bảo quản được vài trăm năm, còn không thì thân mình chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn, phần nào đất trở về đất, phần nào nước trở về nước, trong thời gian đó loài nào ăn được thì cứ ăn.

Danh uẩn sinh diệt chớp nhoáng, sắc uẩn thì chỉ nhờ vào yếu tố phù du mà tồn tại, sau đó trở thành miếng ăn cho loài khác. Hành giả quán chiếu như vậy. Điều này rất quan trọng. Hồi tối trước khi đi ngủ tôi nghĩ phải nhắc lại điều này, không thể không nhắc. Trong room này và những ai sau này nghe lại bài giảng này, hoặc những ai đọc đoạn kinh này, phẩm này chương này sẽ coi thường đoạn này. Họ sẽ thấy đoạn này không có gì hấp dẫn ly kỳ, nhưng quí vị nghe câu tôi sắp nói đây sẽ có người buồn, và sẽ có người vui: Người không có duyên lành Ba-la-mật gặp mấy bài kinh này sẽ chịu không nổi và thấy buồn chán lắm. Tại sao vậy? Nguyên phẩm này Ngài nói về quán chiếu năm uẩn, thấy không có gì đặc biệt ly kỳ hết. Tại sao nguyên chương này tẻ nhạt buồn bã? Bởi vì thế giới này vốn dĩ không có cái gì hấp dẫn ly kỳ như ta nghĩ, và tấm thân này cũng không có gì hấp dẫn ly kỳ như ta nghĩ nên khi nói về thế giới, khi nói về tấm thân này cũng không có gì hấp dẫn ly kỳ như ta nghĩ. Cố ý của Đức Thế Tôn khi giảng những điều này là để cho ta thấy rằng cái thương cái giận của mình chỉ là trò hề. Loạt kinh này chỉ cho ta thấy mọi thứ chỉ là trò hề. Mình làm lớn chuyện chớ ngay trong cái gọi là tôi, của tôi thì bản chất thật sự của nó chẳng là gì hết. Bằng cấp, quyền lực, chức vụ thật ra chỉ là năm uẩn, gom gọn lại là Sắc uẩn và Danh uẩn. Sắc uẩn chỉ tựa nương vào ba điều kiện phù du: thọ mạng, thân nhiệt  tâm thức. Không có ba thứ đó là thành xác chết. Danh uẩn là gồm kinh nghiệm, ký ức, cảm giác, khía cạnh thiện ác, những thứ này thì sanh diệt chớp nhoáng trong cái búng tay, xuất hiện rồi biến mất và để lại hậu quả cho đời sau kiếp khác.

Muốn đọc hiểu loạt kinh này nói riêng và trở thành hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ, người nghiên cứu kinh điển nói chung thì điều kiện đầu tiên phải là thấy được rằng sự có mặt của thân tâm này là Khổ. Chỉ có sự nhận thức đó thì mới hiểu được Phật pháp sâu xa và hành trì tinh tấn được.

Muốn học Phật pháp, hành trì lời Phật cho đàng hoàng thì điều kiện đầu tiên là phải thấy rằng sự có mặt của thân tâm này rõ ràng là khổ, (chưa nói đến chuyện sanh ly tử biệt, nợ nần, tai nạn, oán thù, pháp luật, chiến tranh, đói khát, thiên tai…); để thấy được cái khổ đó chỉ có người sống tỉnh thức bằng chánh niệm, trí tuệ, quán chiếu thường trực thì mới thấy được thân tâm này thật sự là khổ. Một khi anh còn đến với đạo bằng tâm trạng rong chơi thì anh đừng nói với tôi là anh học giáo lý nghiêm túc, hành trì lời Phật nghiêm túc. Tôi, người đang hầu chuyện với quí vị, một thời tôi có suy nghĩ mình không thể mất thì giờ cho người tào lao (tò mò, rảnh rỗi, buồn buồn) đến tìm hiểu giáo lý, mà tôi có suy nghĩ là soạn ra 100 câu hỏi giáo lý theo kiểu ai đọc cũng hiểu không cần kiến thức từ ngữ chuyên môn rồi in thành tập mỏng mỏng, ai đến tôi không cần gặp mặt họ, rút tập câu hỏi đó và có cây bút chì chọn a, b, c, d, v.v… Người của tôi sẽ mang câu hỏi đó vào cho tôi và tôi chỉ cần liếc mắt xem vì sao họ chọn câu a, b, c, d đó, đừng hòng gạt tôi mà nói rằng chọn ngẫu nhiên. Tôi sẽ hỏi vì sao chọn d mà không chọn khác, ấm a ấm ớ là tôi thả chó đuổi đi chớ đừng có hòng tôi ngồi tôi dạy đạo. Nếu trả lời suông thì ok tôi sẽ dành thời giờ cho anh, tôi nuôi anh ăn một đời, tôi đi khất thực đội mưa đội nắng, tôi nuôi cơm cho anh tôi cũng đi. Còn anh trả lời ấm ớ thì tôi thả chó đuổi đi. Anh không thể nào học đạo vì sự tò mò tri thức, vì buồn quá, vì giận chồng, giận con… Phật pháp chỉ tác dụng đối với người nào thật sự thấy mình đang khổ. Người như tôi mong thì họ sẽ lựa những câu như tôi muốn. Cách đây vài tháng có vài người đề nghị tôi mở lớp dạy Pāḷi vì họ học tùm lum hết mà chưa có phê. Tôi nhớ có trả lời hai câu: Bữa trước học lớp sc Liễu Pháp nghe nói là học một tháng đọc được mà sao hôm nay chưa đọc được. Ngay cả tiếng ‘mọi’ cũng không thể nào học một tháng mà trao đổi được. Tôi hỏi vì sao quí vị sợ mất thời gian của mình mà không sợ mất thời gian của tôi. Hai là cho tôi danh sách ai là người học trong lớp để tôi quan sát xem tôi có thể dành bao nhiêu thời gian cho quí vị chớ không phải tôi ăn rỗi ở thì ngồi giảng cho quí vị ngáp ngắn ngáp dài mà tôi không thấy mặt mũi. Tôi nghe rất nhiều chuyện buồn về người VN bên Miến Điện, tu không giống ai hết trơn. Mình là con rồng cháu tiên mà tu không giống ai hết, lại thêm đỉnh cao trí tuệ nữa.

Những bài kinh này phải có tâm tình như thế nào đó mới học được, hồi tối trước khi đi ngủ tôi phải ghi cái ý này lại chớ không là quên: Phải thấy mình đang Khổ, và không thể quán chiếu năm uẩn, danh sắc, 12 xứ, 18 giới từ góc độ ‘tôi là’ (tôi thấy, tôi đang nghe, tôi đang bước đi, tôi đang buồn, tôi đang vui…) mà chỉ thấy rằng Sắc đang đi, Danh đang thiện, đang ác, đang buồn, đang vui. Buổi đầu không quen nhưng khi nào anh thấy sự có mặt của anh là khổ thì mới chấp nhận chuyện Đức Phật dạy quán chiếu 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới một cách khách quan. Nếu chưa thấy khổ, đừng học học đạo hành đạo đúng như lời Phật.

Bài kinh tiếp theo là kinh Phân Bò. Cũng y như vậy, nếu không có lòng sợ khổ thì học mấy bài kinh này chán chết. Đức Phật dùng hình ảnh rất đời thường, vật thể rất bé mọn; Ngài nhặt lên miếng phân bò khô và nói rằng: Này các tỳ kheo, trong trời đất vũ trụ bao la này với vô lượng chủng loại chúng sinh, mà tìm ra một chút vật chất, một chút hiện hữu, một chút tồn tại, một sự có mặt nhỏ bé như miếng phân bò này mà không bị vô thường còn không có nói chi là cái gì to tát lớn lao như gia đình, quốc gia, quyền lực, châu báu, nhà cửa. Ai có tiền cũng mong mình chết rồi thì được mồ yên mả đẹp, có người nghĩ chuyện ướp xác để tồn tại tới thiên thu, nhưng quí vị chịu khó quan sát lại quãng đời mình đã sống qua từ bé đến giờ, trừ lăng mộ của đế vương thì toàn bộ cái gọi là dân chúng có cái mồ mả nào tồn tại quá năm trăm năm mà còn được tiếp tục hương khói hay không? Tôi đọc báo mỗi ngày tôi biết, ở VN, mộ xưa mộ cổ gì đó chỉ cần ba bốn thế hệ thì con cháu đã làm lơ rồi. Cha của Nam Phương hoàng hậu, có cái mộ rất đẹp trên Đà Lạt, từ trước 1975 đã nhang tàn khói lạnh. Công tử Bạc Liêu ở miền Nam, ông Bạch thái Bưởi ở miền Bắc, ông Huyện Sĩ… mồ mả không còn gì hết, hoặc là bị đập phá, hoặc là nhang tàn khói lạnh.

Khi nghe những lời dạy này của Đức Thế Tôn, có người nghĩ, đây là chuyện tự nhiên và bỏ ngoài tai, có người nghe và sợ vì không còn chỗ dựa. Quí vị biết trong các thiên tai tôi sợ nhất loại nào không, đó là động đất. Bão lụt hay núi lửa, sóng thần còn tìm chỗ trốn chỗ chạy, chớ còn đất ở dưới chân nếu nó không chịu chứa mình nữa thì mình chạy đi đâu? Khi nghĩ mình còn sống lâu, còn trẻ khỏe thì mình còn nghĩ chuyện đối phó chuyện đời, buồn vui, bất trắc, nhưng bây giờ ngay tấm thân này có thể nảy sinh vấn đề bất cứ lúc nào, nếu nó có gì bất trắc bất ổn thì cái gì cũng kết thúc. Vì vậy Đức Phật mới dạy, cho dù sự hiện hữu nhỏ xíu của miếng phân bò cũng không có gì cốt lõi, trường tồn mà mọi thứ sẵn sàng đi vào sự băng hoại. Khi nghe như vậy thì có người làm lơ, có người sợ hãi nhưng có người cảm thấy an lạc vì họ buông được gánh nặng, vì từ trước đến giờ họ cứ nghĩ đây là tôi, đây là của tôi giờ họ thấy rằng mình chỉ là nắm cát, khi thấy mình đang khổ mà nghe thấy bản chất tấm thân này thì lại mừng.

Kinh Thanh Tịnh nội dung cũng vậy. Tiếp theo là bài kinh Dây Buộc (Dây Thằng). Bài kinh này thì quá nặng luôn.

KINH DÂY BUỘC (Gaddulasutta)

Nội dung gồm hai vấn đề:

– Núi và biển để tự nhiên cũng có lúc biến mất nhưng sự luân hồi của phàm phu không thể tự nhiên chấm dứt.

– Người còn chấp ngã đối với thân tâm (ngũ uẩn) thì giống như con chó bị cột vào đâu đó, làm gì cũng chỉ quẩn quanh ở đấy, không thoát ra được.

Trước đây mình thấy tình cảm gia đình, tiền bạc tài sản quyền lực là quan trọng, khi biết đạo rồi mình thấy những thứ đó là vớ vẩn. Khi chuyên tâm tu học thì thấy giới luật, thiền định, kiến thức, đức hạnh là quan trọng. Tuy nhiên, phải thấy rằng, tất cả những thứ đó có rồi cũng mất dù chỉ là thiện pháp, chúng chỉ là phương tiện để mình đi đến cứu cánh giải thoát chớ không phải là để cho mình nghĩ rằng ‘tôi’ bố thí, giữ giới, trí tuệ, thiền định hay hơn, nhiều hơn, tinh tấn hơn người khác. Nếu còn bị vướng kẹt trong năm uẩn thì xem như trước đây mình chấp những thứ tầm thường, giờ mình chấp sang những thứ khác, trong trường hợp này, Đức Phật nói rằng một người như vậy dù có đi đâu ra sao cũng quẩn quanh trong cái tôi và của tôi như một con chó dù có cào, cắn, sủa cũng chỉ quẩn quanh chỗ đó mà thôi.

Kinh Dây Thằng 2 cũng y như vậy, nhưng có thêm một nội dung nữa: Mọi sự ở đời do tâm mà ra, tâm thanh tịnh hay ô nhiễm. Chính do nhận thức (tâm) sai lầm mà kẻ phàm phu tiếp tục đầu tư năm uẩn cho kiếp khác, thay vì chấm dứt càng sớm càng tốt. Còn chấp năm uẩn thì còn có cơ hội sinh tử.

Trong Pháp Cú có ba câu kệ rất quan trọngTrong Pháp Cú có ba câu kệ rất quan trọng: Khi nào quán chiếu thấy được các pháp hữu vi là vô thường, vô ngã, người ta sẽ nhàm chán trong đó, và nhờ nhàm chán mới có giải thoát (PC 277, 278, 279). Mọi sự có mặt ở đời là khổ, mọi sự có mặt là vô ngã, vô thường, hành giả thường xuyên quán chiếu như vậy thì không còn chán đời chán thân nữa mà là chán cái khổ. Khổ = thân tâm = hiện hữu; thân tâm này chính là khổ, khổ đồng nghĩa với sự hiện hữu. Người không phải hành giả thì thấy khổ là một phần của đời sống. Hành giả thì thấy bản thân đời sống là khổ chớ không phải là một phần nữa. Có ba khổ[1], và chỉ có người sống bằng chánh niệm, trí tuệ mới thấy được sự có mặt của năm uẩn trong từng phút là khổ, là đáng chán, đáng sợ.

Người VN, người Thái và người Miên có điểm giống nhau là mỗi ngày đọc kinh Phật, đọc lễ bái tán dương Tam Bảo, cầu nguyện cho mình được sắc đẹp giàu sang, mong chư thiên hộ trì tùm lum. Nhưng người Miến Điện thì không, mỗi ngày thường xuyên tụng đọc câu kinh quan trọng có ý nghĩa trực tiếp cho chuyện tu học của mình. Những kinh tụng niệm công phu sáng chiều của mình phần lớn toàn là lễ bái Tam Bảo, cầu xin chư thiên, Tam Bảo gia hộ, không phải nằm trong chánh tạng. Trong khi ba bài kệ (PC 277, 278, 279) hồi nãy tôi đề nghị là ba bài rất quan trọng, quan trọng đến mức ngài Buddhaghosa lấy ba bài đó làm nội dung cho Thanh Tịnh Đạo. Phật pháp chỉ nằm gọn trong đó thôi, rất là sâu, sâu không dò tới đáy luôn.

CÁI BÚA (Vāsijaṭasutta)

Học xong bài kinh Cái búa này thì nghỉ, tôi thấy bà con bắt đầu hơi nản rồi đó. Kinh này dành cho hành giả, chớ còn học cho vui thì nghe chán lắm. Nếu tôi không lầm trong room này không ai dưới 18, mà 18 còn trẻ lắm; tôi nghi ngờ lắm, trẻ thì đâu vô đây gần chết mới vô đây, giá chót cũng 40. Nhớ là mình phải chuẩn bị cho cái chết. Người sống đẹp nhất là người biết chuẩn bị cho cái chết.

Bài kinh Cái Búa này Đức Phật dạy một vị tỳ kheo không nhận thức đúng đắn trong năm uẩn thì đừng mong có sự giải thoát. Sự nhàm chán sợ hãi trong năm uẩn đúng cách phải là hành trì 37 pháp trợ Bồ Đề. Có chỗ gọi là Tứ Chánh Cần, có chỗ gọi là Tứ Như Ý Túc, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm Xứ. Kể ra thì khác nhau, nhưng tu tập cái này cũng chính là tu tập cái kia. Tùy duyên người nghe mà Đức Phật trình bày con đường giải thoát theo cách nào. Có chỗ Ngài nói: “Này các tỳ kheo, toàn bộ thời gian một ngày chỉ nên dành hết cho toàn bộ Chỉ và Quán” (Tăng Chi, Phần hai chi), không hề nhắc gì đến giới. Tại sao Ngài nhắc Chỉ (samatha) ở đây? Bởi vì Giới năng sinh Định, Định năng sinh Tuệ. Có người Ba-la-mật đầy đủ, Định đủ mạnh để quán chiếu thì không cần tốn nhiều sức, còn người yếu thì cần phải trau dồi Định bằng thiền Chỉ, để cho tâm mạnh đủ để có thể an trụ, không phóng dật, từ đó mới quán chiếu năm uẩn (bản chất là gì và đang ra sao). Ai là hành giả Tứ Niệm Xứ mới hiểu điều này, còn chỉ học suông thì không cách nào hiểu. Khi sống chánh niệm làm gì biết nấy, nói gì biết nấy, nghĩ gì biết nấy, chuyện gì xảy ra biết ngay thì còn quá hơn là giữ giới.

Tôi không giảng 37 Pháp trợ Bồ đề[2] ở đây vì mấy cái này giảng sơ sài thì cũng như không giảng, lòng tôi cũng không yên. Bắt tôi nói đầy đủ thì không có thời gian. Có người, nhiều khi tôi đang giảng bài kinh này, quí vị post bài kinh khác làm tôi hiểu ngầm kêu tôi giảng bài kinh khác.

Nội dung bài kinh Cái Búa: Sự giải thoát chỉ có ở người có nhận thức. Nhận thức ở đây là sự nhàm chán cùng với sự hành trì 37 pháp trợ Bồ Đề. Bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp chúng ta giống như con gà trong trứng không chui ra được nhưng khi hành trì 37 pháp trợ Bồ đề thì giống như con gà đã mổ bể vỏ trứng để không tiếp tục sống trong bóng tối vô minh. Trong Luật tạng Đức Phật cũng xác nhận như vậy: Ta là con gà đầu tiên trong ổ trứng ra được khỏi vỏ trứng, từ đó ta mới hướng dẫn người khác. ‘Đầu tiên’ ở đây là đầu tiên trong mỗi thời kỳ của từng vị Phật.

Giống như người dùng búa lâu ngày thì họ không thể cân đong đo đếm lúc đầu trọng lượng bao nhiêu, dày bao nhiêu và bây giờ mòn bao nhiêu; có điều họ chỉ nhìn chỗ để ngón tay để thấy cái búa đã mòn bao nhiêu. Một người tu Tứ Niệm Xứ lâu ngày sẽ có cơ hội nhận ra mình bây giờ không dễ giận như ngày xưa, không còn thích thứ này thứ kia dễ dãi như ngày xưa. Không phải là hành giả, hay là người cầu đạo giải thoát thì gặp bài kinh này thấy rất chán. Tôi không phải là hành giả nhưng vì tôi sợ chết nên đọc bài kinh này tôi rất thích. Đức Phật dạy mình phải thường xuyên quán xét xem hôm nay có khá hơn hôm qua, tuần này có giỏi hơn tuần trước hay không. Và Ngài dạy, giống như chiếc thuyền được làm ra để đi trên nước, có đi thì mới được bảo trì, duy tu, còn nếu lôi nó lên úp trên cạn để mặc cho mưa nắng tháng ngày thì hư mục chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi. Mình cứ kiếm chuyện để giận để thích nghĩa là đang bảo trì duy tu sơn sửa chiếc thuyền sinh tử, phiền não của mình. Còn thường xuyên kiểm soát nó, phiền não của mình sẽ giống như chiếc thuyền bị kéo lên cạn úp đó, sớm muộn gì cũng hư. Một người sống quán chiếu, tỉnh thức đối với năm uẩn, thiện ác, phiền não của mình thì khả năng luân hồi sớm muộn gì cũng bị hư mòn và kết thúc. Đoạn cuối bài kinh Cán Búa là niềm an ủi rất lớn cho các hành giả. Khi biết rõ phiền não là phiền não, vô thường là vô thường, vô ngã là vô ngã, nhận thức này sẽ làm cho dòng luân hồi ngắn đi. Còn bây giờ không thấy sợ sự có mặt ở đời thì chỉ kéo dài dòng sinh tử ra mà thôi. Lý tưởng cao nhất của người trí tuệ chính là chấm dứt sinh tử, bởi dù chúng ta có kiến tạo ra một thiên đường nhân gian rồi sẽ cũng bịnh, chết. Cứ quay tới quay lui như vậy sẽ được gì. Các chính khách, ai cũng hứa hẹn xây dựng một thiên đường trên mặt đất này, nhưng rốt ráo thì đi về đâu?

VÔ THƯỜNG TÁNH (Aniccasaññāsutta)

Nội dung kinh Vô Thường Tánh là Đức Phật kêu gọi quán chiếu bản chất vô thường trong năm uẩn nhờ vậy được giải thoát. Bài kinh này muốn nói đủ thì ba tháng, đủ nữa thì ba năm, mà muốn đủ nữa thì một đời, còn không thì nói mấy câu là xong. Ta khổ và luân hồi vì không chịu thấy mọi sự trên đời chỉ tồn tại trong mỗi chớp mắt, không có gì đáng để yêu thích hay ghét sợ. Vì Ba-la-mật non yếu nên dù có biết được như vậy ta vẫn tiếp tục phiền não và đau khổ. Những bài kinh về năm uẩn này, người có Ba-la-mật chín muồi, họ nghe thì còn hơn trúng số độc đắc đô la Mỹ nữa. Ngài dạy rằng: nhờ luôn quán chiếu vô thường nên bỏ được ngã chấp (‘asmimāna’: ý niệm ‘tôi là’). Một ngày làm không được thì làm hoài sẽ được, nghĩa là thường xuyên quán chiếu. Đừng theo sách vở thiền sư bày vẽ những cái lạ lùng, cứ y theo trong kinh Tứ Niệm Xứ Đức Phật đã dạy, đi biết là đi, ngồi xuống biết là ngồi xuống, cầm lên biết cầm lên, để xuống biết để xuống; sâu hơn một chút, muốn cầm lên biết muốn cầm lên, muốn để xuống biết muốn để xuống, càng lúc càng khít khao hơn. Từ từ sẽ thấy đời sống này là lắp ráp, đúng là vô thường. Chính nhìn thấy sự vô thường này mới làm cho mình nhàm chán danh sắc, lìa bỏ phiền não chớ còn ngồi thấy mùa thu lá vàng rơi, nước chảy chân cầu, nhìn mái tóc bạc da mồi, cái vô thường đó chưa đủ đâu, phải thấy khít khao, thấy liền, liên tục, chính xác thì mới chấm dứt phiền não được. Đừng có ham mấy cái Tuệ thứ tư thứ năm, đừng mê mấy cái xa vời đó, đó là của đời sau chớ thời Đức Phật chẳng ai đi tu mà mong mấy cái tuệ đó. Chỉ quán chiếu danh sắc, ra sao thì thấy vậy, không thêm bớt gì hết, nếu đủ duyên thì thành thánh, không đủ thì an lạc hiện tiền. Có vị cũng từng đi học bên Thái, cũng có bằng cấp A-tỳ-đàm mà tôi thấy nản quá, mở miệng ra là Tuệ thứ năm thứ bảy, ai học A-tỳ-đàm thì biết tuệ này tuệ kia chỉ là tâm đại thiện, tâm phàm, bữa có bữa không. Ví dụ sáng nay tôi quán chiếu năm uẩn lòng tôi hờ hững lãnh đạm thì đó là Hành xả tuệ. Theo trong bản đồ thiền tuệ thì Hành xả tuệ là phàm tuệ cao nhất. Nhưng trong thực tế thì không phải như vậy, sáng nay tôi Hành xả tuệ nhưng trưa nay tôi quay trở lại Tuệ sợ hãi khi tôi nhớ lại danh sắc sao sanh diệt nhanh quá. Chiều tôi quay lại Tuệ chán nản tối tôi quay lại Hành xả. Tuệ chỉ là từng giai đoạn tâm trạng nhận thức của hành giả đối với danh sắc. Những giai đoạn này đắp đổi với nhau lúc vầy lúc khác, lúc trồi lúc sụt, lúc lên lúc xuống. Theo trong kinh thì Tuệ thứ nhất thấp hơn Tuệ thứ hai, Tuệ thứ hai thấp hơn Tuệ thứ tư, thứ tư thấp hơn thứ tám, đó là người ta trình bày cho mình thấy quá trình trải qua như vậy, cái này cao hơn cái kia vậy thôi chớ không phải để cho mình đi tìm mong mỏi Tuệ thứ năm thứ bảy. Tốt nhất là quán chiếu vô thường qua năm uẩn, đầu mình dốt quá thì cứ làm chuyện đơn giản: làm gì biết nấy. Lâu ngày thì tự nhiên biết cái này là danh cái này là sắc. Khi nào hành giả chánh niệm ngon lành, trí tuệ ngon lành là tự động phân biệt cái đó. Bài kinh này Đức Phật dạy quán chiếu vô thường, dĩ nhiên là sẽ có bài kinh khác Ngài dạy mình quán chiếu khổ, vô ngã. Riêng trong bài này, Ngài nhìn số người ngồi trước mặt và biết nên nói cho họ nghe về sự quán chiếu vô thường. Trong chú giải nói thêm: Người thiếu niềm tin thì hợp với đề mục vô thường, người Định mạnh thì hợp với đề mục khổ, người Trí nhiều thì hợp với đề mục vô ngã. Khổ ở đây không phải chỉ là sự khó chịu, mà chính là sức ép (pilana), đẩy mọi thứ đi vào chỗ băng hoại. Dầu muốn dầu không thì thân tâm này phải vô thường, thay đổi, dầu muốn dầu không cơn đau, cơn ngứa, trạng thái thoải mái này phải biến mất. Đang ngồi mà thấy người mát lạnh, nổi da gà, người nhẹ tênh, phải biết đây là hỷ lạc, hỷ lạc này sớm muộn gì cũng biến mất. Một lần Đức Phật đến thăm bệnh một vị tỳ kheo, Ngài hỏi có đau lắm không, vị tỳ kheo thưa: Bạch Thế Tôn con đau quá, đến mức chỉ nghĩ thà chết tốt hơn. Đức Phật dạy: Ngươi hãy nhớ như sau: đau đớn như thế nào, sợ hãi như thế nào rồi thì cũng vô thường. Lúc sắp chết thì sợ hãi và đau đớn là hai cái nổi bật còn nhớ thương tiếc nuối chỉ là chuyện phụ. Đau đớn cách mấy, sợ hãi cách mấy rồi mọi thứ cũng qua đi. Ngay bây giờ quí vị thấy những điều này không quan trọng, nhưng mai mốt nằm một mình trây trét tiểu tiện không tự chủ, thì nhớ ngày xưa tôi từng giảng tu chánh niệm bây giờ để đối mặt với cô đơn, cái chết mà không chịu làm. Quí vị phải làm ngay bây giờ chớ không thể nào để tháng sau năm tới được. Sau khi tôi bái bai, quí vị tắt máy thì quí vị phải sống chánh niệm ngay cho tôi, vì mình không thể biết thời gian mình chuẩn bị cho cái chết bao lâu, để rồi khi những chuyện kinh hoàng xảy đến thì trở tay không kịp. Cứ sống chánh niệm, không tốn tiền bạc gì hết, từ nền tảng đó thì sẽ nảy sinh trí tuệ. Khi Niệm mạnh rồi thì tự động thấy ra. Giống như khi mình còn nhỏ, cái ôm của mẹ của cha không thấm đâu. Cứ sống đời cho giỏi, về chăm mẹ rửa giùm cái chén cái bát, rồi bữa nào đó thầy cô kêu dậy sớm tới lớp, lúc đó mới thấy ra dậy sớm không dễ vậy mà mẹ mình dậy sớm mấy chục năm để lo cho gia đình. Bữa nào đi học về trễ đói bụng thấy đói bụng khổ như vầy, vậy mà mẹ nhịn đói biết bao nhiêu lần để nhường miếng ăn cho mình. Bữa nào ngủ đạp cái mền rớt xuống đất thấy lạnh cóng mới thấy thì ra ngủ lạnh khó ngủ như thế này vậy mà nhiều lần không có mền mà mẹ vẫn dành cho mình, từ từ mới thấy ra tình mẹ. Nhỏ xíu thì làm sao hiểu tình mẹ, từ từ hiểu thức khuya dậy sớm là khổ, đói lạnh là khổ, bịnh không thuốc uống là khổ, ra đường bị người ta coi khinh là khổ, vậy mà mẹ mình gánh hết để cho mình khôn lớn, lúc đó mới hiểu được tình mẹ. Ở đây cũng vậy, những vụ quán chiếu danh sắc, khổ, vô thường, vô ngã xa lắm, cứ sống chánh niệm, chánh niệm lâu dần thì sẽ có Tuệ.

Những bài giảng này được lưu trữ dưới dạng âm thanh trên internet ở địa chỉ sau đây: www.vietheravada.net; bản kinh Pāḷi và Sớ giải từ địa chỉ www.tipitaka.org.
Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app