Bài Giảng Kinh Tương Ưng Tập 3 – Chương 1: Tương Ưng Uẩn – Phẩm Biên

Bài giảng Kinh Tương Ưng Tập 3 

Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Biên

CÁC SA-MÔN (Samaṇasutta)

Chúng ta đang tiếp tục những bài cuối cùng của phẩm Biên. Sáng nay mình học kinh Sa-môn. Ở đây Đức Phật nhắc lại vấn đề năm uẩn. Muốn chấm dứt phiền não, và dĩ nhiên là chấm dứt sinh tử thì phải biết rõ bản thân mình là cái gì và thế giới này là cái gì. Nói gọn lại là chỉ gồm trong danh sắc, hay nói khác đi là năm uẩn, 12 xứ, 18 giới. Trường hợp này, Đức Thế Tôn chia chẻ thế giới thành năm phần, đó là năm uẩn. Ngài nói, trên đời này, hễ nói đến sự giải thoát, giác ngộ, chứng đắc của một cá nhân nào đó thì chuyện đầu tiên bắt buộc phải hiểu ngầm là vị đó phải là người hiểu biết được năm uẩn ở các khía cạnh: tập khởi, đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của năm uẩn.

Thế nào là vị ngọt của năm uẩn? Tất cả những gì mình thấy dễ chịu ngọt ngào trong đời sống, đều là vị ngọt của năm uẩn. Bữa ăn ngon, cái áo đẹp, chiếc xe mình thích…, tất cả những cái thích, cái làm cho mình thấy dễ chịu đều là vị ngọt của năm uẩn.

Khi tôi nói, Thọ uẩn là khía cạnh cảm giác của tâm, Tưởng uẩn là cái biết dựa trên hồi ức, Thức uẩn là cái biết đơn thuần của sáu căn, Hành uẩn là khía cạnh thiện ác của tâm, bốn khía cạnh này không thể lìa nhau (bất ly) và cùng có mặt cùng một lúc với nhau trong một sát na, nhiều người nghe hiểu lầm là ngồi nhớ lại chuyện cũ là Tưởng uẩn. Phải là khi thấy cái gì đó việc đầu tiên mình liên tưởng tới cái gì đã biết, cái biết đó được gọi là Tưởng uẩn, khía cạnh nhận thức cảnh trước mặt bằng hồi ức, kinh nghiệm, kiến thức cũ là Tưởng uẩn. Ví dụ ly nước trước mặt, mình có thể nhận biết nó qua nhiều khía cạnh: tròn, vì đựng nước đá nên nó lạnh, vì bằng thủy tinh nên nó trong suốt; như vậy cái lạnh, tròn, trong suốt và cứng có mặt cùng một lúc ở một cái ly. Năm uẩn cũng vậy, chia làm hai phần, sắc uẩn và danh uẩn. Danh uẩn gồm bốn khía cạnh thọ tưởng hành thức, không lìa nhau và có mặt cùng một lúc như ly nước đá ở trên. Hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ phải biết rõ năm uẩn là gì và khi đứng trước một cái gì ngọt ngào trong đời sống phải biết đây là vị ngọt của năm uẩn đồng thời cũng hiểu ngầm nó chính là nền tảng cho sự nguy hiểm (adinava # mặt trái) của năm uẩn. Tất cả những gì đau đớn, phũ phàng, ngang trái, được gọi là vị đắng hay là ‘mặt trái’ của năm uẩn. Mặt trái và mặt phải vốn dĩ không lìa nhau, luôn đi một cặp với nhau. Hành giả phải biết cơ cấu, thành tố nào làm nên cái gọi là Tôi, ông A, bà B, vũ trụ, ngân hà, thái dương hệ… đều bắt đầu từ năm uẩn. Chúng sinh chìm đắm trong ba cõi, sáu đường, ngũ thú lục đạo vì cứ chạy theo vị ngọt của năm uẩn, và cái gì cay đắng, phũ phàng là mặt trái của năm uẩn. Đó là sự vô thường, khổ của thế giới. Chính cái vô thường, khổ này đã làm cho chúng ta có những lúc chịu không nổi. Trong kinh nhiều chỗ Đức Phật nói, nhan sắc lúc thịnh có thể làm cho người sở hữu hạnh phúc, đó là vị ngọt của nhan sắc, và lúc nào đó bị vô thường thay đổi không còn như cũ, đó là mặt trái, sự nguy hiểm của nó. Đối với danh cũng vậy, vì nó mà mình vui thì chắc chắn ngàn phần trăm mai này vì niềm vui đó mà mình bị khổ. Vì sao vậy, vì vô thường, không có cái gì còn hoài. Có nhiều cách để mình khổ: muốn không được là khổ, có rồi tâm vô thường không thích nữa cũng khổ, tâm chưa kịp vô thường thì nó đã vô thường cũng khổ. Trong trăm chuyện quí vị mơ ước, có bao nhiêu phần trăm đạt được? Và đạt có y như ý muốn không? Và nếu đạt được rồi thì có tiếp tục mê nó hoài hay không? Khi tâm mình chưa kịp chán nó thì nó đã thay đổi. Tôi nghèo nhưng cũng sở hữu đôi chút: đôi giày, mắt kính, đồng hồ… Chính vì sở hữu nên tôi biết hoặc là tâm mình, hoặc vật đó sẽ vô thường. Đó chính là vị đắng – sự nguy hiểm của năm uẩn. Sự xuất ly năm uẩn là khi thấy vậy rồi sanh tâm nhàm chán. Vì vậy trong kinh Pháp Cú 277, 278, 279, Đức Phật dạy: Tất cả các hành (saṇkhara: hữu vi, vạn hữu) là vô thường. Khi nào thấy được các hành là vô thường, khổ, vô ngã thì sanh tâm nhàm chán trong Tam tướng đó, sự nhàm chán đó chính là sự xuất ly.

Tóm lại: Sự có mặt của ta chỉ là sự có mặt của năm uẩn. Sự đam mê trong năm uẩn chính là nguồn cội cho năm uẩn đời sau. Sự giải thoát thực sự là vắng mặt năm uẩn. Con đường giải thoát phải bắt đầu từ sự nhàm chán năm uẩn. Năm uẩn là Khổ đế. Sự đam mê trong chúng là Tập đế. Sự vắng mặt của chúng là Diệt đế. Sự ly tham nhàm chán trong chúng chính là Đạo đế, tên gọi khác của Bát Chánh Đạo.

Người hành trì Bát Chánh Đạo không thể nào tiếp tục đam mê trong năm uẩn, vì đầu tiên của Bát Chánh Đạo là Chánh kiến, và thứ hai là Chánh tư duy. Chỉ cần hai thứ Chánh kiến và Chánh tư duy là đủ thấy lạnh người đối với năm uẩn. Bởi Chánh kiến là trí tuệ thấy được lý nhân quả, thấy được khía cạnh Tam tướng trong danh sắc. Chánh tư duy là Ly dục tư duy, Vô sân tư duy và Bất hại tư duy; một người có ly dục tư duy làm sao tiếp tục đam mê trong năm uẩn. Bát Chánh Đạo là hành trình lìa bỏ năm uẩn qua sự kinh cảm nhàm chán. Té ở đâu thì đứng lên từ đó, giải pháp cho mọi vấn đề nằm ở chính nó. Muốn lìa bỏ năm uẩn phải nhàm chán chúng. Tiếp tục đam mê trong năm uẩn, trong vật chất, tình cảm danh lợi nghĩa là còn tiếp tục sinh tử, muốn lìa bỏ thì phải chán, dù còn sót lại một chút đam mê thì cũng giống như còn sót lại một chút của lửa. Một chút lửa nhỏ cũng đủ làm cháy rừng. Đức Phật từng dạy: Này các tỳ kheo, giống như một miếng phân người dính vào cái que nhỏ xíu, dù một xíu phân vẫn là phân, vẫn là đáng gớm. Cũng vậy, sự có mặt của chúng sinh phàm phu nhỏ bé đến mấy đi nữa, còn một chút hiện hữu là còn khổ. Chỗ ở hiện tại của tôi là rừng, sáng sáng mùa hè, có những bầy côn trùng nhỏ xíu như hột mè, không biết mấy trăm ngàn con, chúng di chuyển từng bầy ken cứng như trái banh. Tôi nghĩ, nếu là con người mình thì vài chục mạng đã nhiều rồi, đằng này không biết bao nhiêu mà kể, sự hiện hữu của mỗi con chỉ bằng hạt mè, không có danh lợi, không có tiếng tăm quyền lực gì hết, nhưng đối với tôi mỗi một con như vậy chứa hành trình sinh tử luân hồi dài dằng dặc. Mỗi con như vậy cũng có thiện nghiệp quá khứ, ác nghiệp quá khứ, có nhiều con trong đó có hạt giống bồ đề, có con sau này sẽ thành Ma Vương, Chuyển Luân Vương, Đế Thích nhưng hiện giờ chúng chỉ là mầm sống nhỏ xíu. Còn có hiện hữu là còn có vấn đề, còn có mặt trong đời này dù sự có mặt nhỏ bé vô danh cũng là nguồn cơn đau khổ cho đời sau kiếp khác.

Gọi là Thủ uẩn vì chúng có mặt do sự chấp thủ của đời trước mà có, và nếu đời này ta tiếp tục chấp thủ chúng thì chúng sẽ tạo ra năm uẩn cho đời khác.

Trong tinh thần PG, không hề có cái gì đi từ kiếp này qua kiếp khác, sự có mặt của năm uẩn, của thân tâm, của hồn của xác, trong đời này là nguồn cơn, nguyên do để mình có năm uẩn của đời sau. Mỗi giây phút năm uẩn sanh diệt liên tục. Sát-na trước diệt, sát-na sau thừa tiếp có mặt. Cái sau không phải là cái trước mà có được là từ sự thừa tiếp cái trước. Năm uẩn của đời sau không phải là năm uẩn của đời trước, nhưng có được là do tham ái phiền não của năm uẩn đời trước. Con không phải là mẹ, con có từ mẹ nhưng mẹ và con khác nhau. Người thường kiến cho rằng có cái gì đó đi từ đời này qua kiếp khác. Người Phật tử cũng thường lén lút nghĩ rằng có một cái tôi còn hoài từ bé đến giờ, nhiều người nghĩ vậy. Nhưng theo tinh thần PGNT không có cái gì tồn tại suốt mấy chục năm, không có cái gì từ trong bụng mẹ cho đến bây giờ mà vẫn tồn tại. Danh sắc liên tục sanh diệt. Mọi thứ do duyên mà có và tồn tại trong một sát na rồi mất và có mặt ở một sát na khác. Còn Ấn Giáo, Bà-la-môn giáo thì cho rằng có cái linh hồn đi từ đời này qua kiếp khác như con chim đời đời bất diệt đi từ cái lồng này qua cái lồng khác. Điều đó không đúng.

DỰ LƯU (Sotāpannasutta)

Bài kinh Dự Lưu cũng y chang như vậy. Đức Phật định nghĩa chữ ‘Dự lưu’ – trong trường hợp này – là bắt đầu cho Tư-đà-hàm, Tư-đà-hàm bắt đầu cho A-na-hàm và A-na-hàm bắt đầu cho A-la-hán. Vì vậy quả vị Dự Lựu là quả vị cực kỳ quan trọng, là quả vị chấm dứt chủng tử phàm phu để bước vào dòng chảy (dự lưu, nhập lưu) của thánh nhân. Người đã chứng đắc Dự Lưu thì chắc chắn không xa phải chứng quả A-la-hán dù có gặp hay không gặp Phật ra đời. Sớm muộn cũng viên tịch Niết bàn và không còn sinh tử nữa, vì Dự Lưu chấm dứt hai phiền não vô cùng quan trọng: thân kiến và hoài nghi.

Giới cấm thủ đi ra từ tham, tà kiến, vô minh. Giới cấm thủ là tin tưởng và hành trì một pháp môn nào đó nằm ngoài Bát Chánh Đạo tức nằm ngoài Đạo đế và hướng tới một cứu cánh không phải Niết bàn, tức không phải Diệt đế; pháp môn đó chỉ trưởng dưỡng Tập đế, nguồn cơn của Khổ đế. Như vậy thì giới cấm thủ không phải là phiền não đặc biệt mà chỉ là sản phẩm từ tham, tà kiến, vô minh mà ra. Thân kiến thì thấy rằng năm uẩn chính là tôi, tôi có năm uẩn, diệt trừ thân kiến nghĩa là không còn gắn kết cái tôi vào năm uẩn, khi quán chiếu năm uẩn thì không thấy cái tôi nào trong đó.

Chấm dứt hoài nghi là vị ấy không còn hoang mang nghi hoặc tôi là ai, tôi là cái gì, từ đâu tới, đi về đâu, Phật là ai, có thật hay không, lời dạy của Phật là gì, có dẫn đến cứu cánh giác ngộ hay không, và chư thánh tăng đệ tử Thế Tôn có đúng là những người đã chấm dứt sinh tử hay không. Kẻ nào nghi hoặc trong Phật thì chắc chắn nghi hoặc trong giáo pháp, nghi hoặc trong quả vị thánh tăng. Tăng bảo ở đây chỉ cho thánh tăng, không phải là phàm tăng. Phàm tăng có lúc vầy lúc khác, bữa nào lỡ bị cây đè, uống lộn thuốc có thể bị khùng bị điên và nhận thức về Tam bảo có thể thay đổi; hoặc thương trúng một bà Hồi Giáo thì cũng thay đổi nhận thức về Tam bảo. Riêng vị thánh nhân Hữu học, tối thiểu từ Tu-đà-hoàn trở lên thì không có cái gì trong vũ trụ này có thể làm thay đổi nhận thức của vị ấy, kể cả cái chết. Vị ấy có tái sinh kiếp khác thì cũng tiếp tục nhìn về Phật, hiểu về pháp Phật, tin tưởng vào đệ tử Đức Phật với niềm tin bất động. Không hoài nghi nghĩa là không hoài nghi Tam Bảo, Tăng bảo là thánh nhân. Hôm nay mình phải qui y phàm tăng vì mình hết cách lựa chọn. Tuy nhiên không phải là tôi báng bổ chư tăng phàm nhân. Ở đây có ai biết bài Supatipanno bhagavato sāvakasangho không. Khổ vậy, vô room giảng không biết mình giảng cho đạo Hồi đạo Chúa hay đạo Hindu. Quí vị coi kỹ xem tôi nói có trật hay không: Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā, esa Bhagavato sāvaka-saṃgho. Tăng, đệ tử của Thế Tôn gồm có bốn đôi tám vị, nghĩa là Sơ đạo Sơ quả, Nhị đạo Nhị quả, Tam đạo Tam quả, Tứ đạo Tứ quả.

‘Yadidaṃ’: nếu, như là.

‘Yugā’: cặp, đôi, pair, couple,

‘purisa’: hạng người.

Theo A-tỳ-đàm chúng sinh có 12 hạng, trong đó có tám hạng là thánh. Sơ đạo là một hạng người, Sơ quả là một hạng người. Nói là bậc thánh Sơ đạo chứ thật ra tâm Sơ đạo chỉ tồn tại trong một sát-na mà thôi. Khi người đủ duyên thì sau khi quán chiếu năm uẩn, danh sắc đúng mức một sát-na thánh đạo sẽ xuất hiện để cắt đứt vĩnh viễn thân kiến và hoài nghi. Từ đó cũng chấm dứt luôn mầm tái sinh của kiếp thứ tám. Tâm thánh đạo đó được gọi là Sơ đạo. Sau tâm Sơ quả (nối tiếp Sơ đạo) sẽ là tâm Nhị đạo giảm nhẹ dục ái và sân, cắt đứt mầm tái sinh kiếp thứ ba. Sau đó là sát-na Tam đạo xuất hiện để cắt đứt thêm dục ái và sân, cắt luôn mầm tái sinh ở cõi Dục giới. Cuối cùng là tâm Tứ đạo xuất hiện cắt đứt năm kiết sử còn lại.

Qui y Tam bảo thì trong đó có Tăng bảo. Tăng bảo trong trường hợp này là thánh tăng. Phàm tăng bây giờ chỉ là sự thay thế tạm thời vì không có thánh tăng. Tôi nhấn mạnh điều này không phải vì bất kính báng bổ, mà chỉ là dặn dò, nay mai bà con có bất mãn một ông sư hay một nhóm nào đó rồi bỏ đạo là tầm bậy. Mình có cưới hồi nào đâu mà li dị? Tăng bảo thật sự là thánh tăng, còn cái ông mình giận là phàm tăng. Không phải vì một người bà con xa bên chồng bên vợ mà li dị.

Ở đây Đức Phật chỉ nói đến một quả vị đầu tiên là Dự Lưu là đủ, người này đã bước vào dòng chảy của thánh trí thì không còn có thể có lựa chọn khác. Khi Ngài nói quả vị Dự Lưu thì mình phải hiểu ngầm Ngài nói luôn cả bốn tầng thánh. Ở đây Ngài chỉ nói đến tầng thánh đầu tiên là vì có những người chỉ nghe được những gì thấp thấp vừa với họ. Giống như người nghèo quá giật gấu vá vai mà bày họ cách làm tỷ phú thì họ chịu không nổi, mình chỉ có thể bày cho họ cách gì đó kiếm chút tiền cho đỡ rách rưới, con cái có tiền ăn học, chớ bày cho họ kiếm vài chục tỷ thì chắc họ nghe chịu không nổi. Có nhiều người không được nhiều phước duyên, lúc đó Đức Phật lựa cái gì nhẹ nhàng phù hợp để nói cho họ nghe.

A-LA-HÁN (Arahantasutta)

Sau khi nói xong quả vị Dự Lưu thì Ngài nói tới A-la-hán. Cũng y như vậy, một người muốn chấm dứt sinh tử, đạt tới quả vị A-la-hán, thì cũng phải đi qua hành trình quán chiếu năm uẩn để biết rõ sự có mặt của mình chỉ là sự có mặt của năm uẩn. Vị đó biết rõ rằng những cay đắng phũ phàng trong cuộc đời này chính là mặt trái, sự nguy hiểm của năm uẩn. Vị đó biết rõ những ngọt ngào trong cuộc đời chính là vị ngọt của năm uẩn. Vị đó biết rõ sự nhàm chán, ly tham ly dục trong năm uẩn chính là con đường xuất ly, lìa bỏ năm uẩn, nghĩa là lìa bỏ luôn cả dòng luân hồi.

DỤC ĐƯỢC ĐOẠN TRỪ (Chandappahānasutta)

Trong đời này, một người sinh tử lấy gì làm hành trang, chất liệu làm nguồn sinh tử? Ta khổ vì ta là năm uẩn, còn thích trong năm uẩn thì còn sinh tử, chán sợ chúng rồi thì hết sinh tử. Chúng ta thích cái gì đó dựa vào ba điều kiện: tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý, môi trường sống. Chỉ cần cắt bỏ đam mê thì không còn sinh tử nữa. Tâm điểm ở đây là ‘thích’, phải biết rõ bản chất thật sự của cái thích đó là gì. Những gì mình thích hay ghét chỉ là sự giả lập, mặc ước do nhiều yếu tố bên trong bên ngoài mình. Ở miền Tây Nam bộ gặp cái xuồng thì thích chớ ở Tây Nguyên mà thấy cái xuồng thì chẳng có hứng thú gì.

Như vậy sáng nay mình đã học xong Phẩm Biên. Bây giờ bắt đầu qua Phẩm Thuyết Pháp. Bài đầu tiên là bài Vô Minh.

Những bài giảng này được lưu trữ dưới dạng âm thanh trên internet ở địa chỉ sau đây: www.vietheravada.net; bản kinh Pāḷi và Sớ giải từ địa chỉ www.tipitaka.org.
Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app