Nội Dung Chính
Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển II
Phẩm Hiền Trí: Tích Khách Tăng
87. “Kaṇhaṃ dhammaṃ vippahāya,
Sukkaṃ bhāvetha paṇḍito;
Okā anokamāgamma,
Viveke yattha dūramaṃ”.
“Người trí bỏ hắc pháp,
Tu tập theo bạch pháp,
Xuất gia sống không nhà,
Một mình ở nơi xa”.
88. “Tatrābhiratimiccheyya,
“Người trí gột rửa sạch,
Hitvā kāme akiñcano;
Pariyodapeyya attānaṃ,
Cittakilesehi paṇḍito”.
89. “Yesaṃ sambodhiyaṅgesu,
Sammā cittaṃ subhāvitaṃ;
Ādānapaṭinissagge,
Anupādāya ye ratā;
Khīṇāsavā jutimanto,
Te loke parinibbutā”.
Cấu uế ở nội tâm,
Lìa dục không ô nhiễm,
Hãy cầu vui Níp Bàn”.
“Những người giữ chánh tâm,
Tu giác chi bảy pháp,
Xa lìa mọi thủ chấp,
Không ái nhiễm hỷ hoan,
Sẽ sanh không lậu hoặc,
Hiện sắp chứng Níp Bàn”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến năm trăm vị Tỳ khưu khách.
Tương truyền rằng: Có năm trăm vị Tỳ khưu đã kiết hạ an cư trong xứ Kosala. Sau khi mãn mùa an cư, các vị ấy trở về Jetavana để yết kiến Đức Bổn Sư. Đến nơi, đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi, các vị ấy ngồi xuống một bên. Sau khi lắng nghe chư Tăng phúc trình sự hành đạo của riêng từng nhóm, Ngài
thuyết pháp và ngâm lên bài kệ rằng:
87. “Người trí hắc pháp bỏ ra,
Tu tập bạch pháp lìa xa gia đình,
Xuất ly, tự sống một mình,
Y theo giới đức, lộ trình Sa môn”.
88. “Người trí phải gội sạch trơn,
Những điều cấu uế chỉ còn trong tâm.
Thú vui Chánh Pháp nên tầm,
Xa lìa ngũ dục, nhập tâm Níp Bàn”.
89. “Không còn cố thủ chấp nê,
Rời tâm ái dục, diệt bề trăm lao,
Để thành sáng suốt thanh cao,
Níp Bàn ắt sẽ chứng vào hiện nay”.
87. “Kẻ trí bỏ hắc pháp,
Tu tập theo bạch pháp,
Bỏ nhà sống không nhà,
Độc thân rất khó hưởng”.
88. “Hãy cầu vui Níp Bàn,
Bỏ dục không nhiễm uế,
Kẻ trí tự rửa sạch,
Mọi cấu uế nội tâm”.
89. “Những ai thường chánh tâm,
Tu tập pháp Giác chi,
Xa lìa mọi chấp trước,
Hoan hỷ không nhiễm ái,
Sẽ sống không lậu hoặc,
Sáng chói, chứng Níp Bàn,
Ngay trong đời hiện tại”.
CHÚ GIẢI:
Kaṇhaṃ dhammaṃ: Sau khi rời bỏ hắc pháp, là pháp bất thiện, nhất là thân ác hạnh.
Sukkaṃ bhāvetha: Người trí xuất gia tu lên Tỳ khưu rồi, từ đó nên hành cho đắc A La Hán đạo, tu tập bạch pháp, nhất là thân thiện hạnh, làm sao?
Okā anokamāgamma: Оkаṃ đây chỉ cho chỗ ngụ, là gia đình.
Апоkаṃ: Là vô gia đình, cốt bước lên con đường đến Níp Bàn.
Tatrābhiratimiccheyya: Ám chỉ trạng thái vô gia đình, cô tịch, Níp Bàn. Người tu tập thất giác chi nên thỏa thích trong trạng thái đó.
Hitvā kāme: Là đã rời xa vật dục và phiền não dục, không còn bị ô nhiễm, tâm tịch tịnh an vui.
Cittakilesehi: Năm pháp cái hãy tự mình gột rửa, tẩy sạch.
Sambodhiyaṅgesu: Chỉ Thất giác chi.
Sammā cittaṃ subhāvitaṃ: Đào luyện phát triển chánh tâm cho càng tăng trưởng, ưu tú.
Ādānapaṭinissagge: Ādāna là bám níu, cầm nắm, nay từ bỏ sự bám níu. Cả bốn cái thủ đều dứt bỏ hết thì được hoan hỷ.
Jutimanto: Bậc có oai lực, nhờ ánh sáng của A La Hán đạo tuệ lúc tan rã Ngũ uẩn sẽ Vô dư Níp Bàn vì đã giác ngộ lý pháp.
Te loke: Những người trong thế gian là Ngũ uẩn nầy, sau khi Níp Bàn. Từ khi đắc quả A La Hán, về sau đã liệng bỏ cả vòng Ngũ uẩn với sự diệt tận cuối cùng bằng Vô dư Níp Bàn. Người đã Níp Bàn là người không còn chấp thủ thứ gì cả, giống như cây đèn tắt vậy.
Chú giải Kinh Pháp Cú – Quyển 2 Trang 166
Cuối thời pháp, nhiều vị Tỳ khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.
Dịch Giả Cẩn Đề
Năm trăm Tăng khách Kiều Tát La,
Về đến Kỳ Viên lễ Phật Đà,
Ngài đã ban truyền ba pháp kế,
Dạy khuyên bậc trí hạnh không nhà.
Một nên độc chiếc hành phạm hạnh,
Hai phải trừng thanh ngũ dục ra,
Ba ráng tu theo bảy nhánh giác,
Níp Bàn quả vị sẽ không xa.
DỨT TÍCH KHÁNH TĂNG
DỨT PHẨM HIỀN TRÍ