Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển Iv – Phẩm Bà La Môn: Tích Trưởng Lão Ānanda

Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển IV 

Phẩm Bà La Môn: Tích Trưởng Lão Ānanda

“Divā tapati ādicco rattim
Ābbāti candimā
Sannaddho khattiyo tapati
Jhāyi tapati brāhmṇo
Atha sabbam ahorattiṃ
Buddho tapati tejasā”.

“Mặt trời sáng ban ngày
Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ
Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật
Chói sáng cả ngày đêm”.

Kệ Ngôn nầy đuợc Đức Đạo Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại ngôi nhà nóc nhọn của Đại Tín nữ Migāramātā, đề cập đến câu hỏi của Trưởng lão Ānanda.

Được nghe rằng: Trong ngày lễ Tự Tứ, Đức vua Pasenadikosala trang điểm thật lộng lẫy với đủ loại trang sức, mang các hương liệu cùng vật thơm khắp mình. Đức vua đi vào Tịnh xá cúng dường rồi ngồi xuống một bên nghe Pháp.

Cạnh đó không xa lắm, Truởng lão Kāludāyi hành thiền, thân tướng của Truởng lão có màu vàng sáng chói và mặt trời bắt đầu lặn, nhường cho ánh trăng sắp hiện khởi.

Trưởng lão Ānanda nhìn thấy ánh sáng mặt trời đang lặn, ánh sáng mặt trăng sắp hiện ra, nhìn Long thể của Đức vua, nhìn ánh sáng phát sanh từ Thiền định của Ngài Kāludāyi và Phật tướng của Đức Thế Tôn. Trong năm loại ánh sáng đó, thì ánh Phật quang rực rỡ hơn cả. Trưởng lão Ānanda đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:

– Hôm nay con nhìn thấy các ánh sáng nầy, con chỉ khả ý với Phật quang của Đức Thế Tôn thôi. Vì rằng: Kim thân của Ngài chói sáng hơn tất cả các ánh sáng khác.

– Nầy Ānanda! Lẽ thường mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng rực rỡ ban đêm. Đức vua chói sáng bởi Vương phục. Bậc Vô Lậu từ bỏ hại chúng chói sáng trong lúc Thiền định. Riêng Đấng Như Lai chói sáng với Phật lực cả ngày lẫn đêm.

Rồi Ngài tuyên thuyết lên kệ ngôn rằng:
“Mặt trời sáng ban ngày. Mặt trăng sáng ban đêm.. Khí giới sáng ban đêm. Khí giới sáng Sát lỵ. Thiền định sáng Phạm chí. Còn hào quang đức Phật chói sáng cả ngày đêm”.

CHÚ GIẢI:
Divā tapati: nghĩa là mặt trời chỉ chiếu sáng ban ngày, nhưng ban đêm không xuất hiện.

Candimā: nghĩa là mặt trăng ra khỏi vầng mây… chỉ chiếu sáng ban đêm, nhưng ban ngày không chiếu sáng.

Sannaddho: là Đức vua chỉ rực sáng với các trang phục là vàng và ngọc Maṇi, có bốn binh chủng vây quanh. Nếu Đức vua cải trang như thường dân thì không có gì gọi là chói sáng.

Jhāyī: là Bậc Vô Lậu từ bỏ hội chúng, chuyên cần với Thiền định gọi là chiếu sáng.

Tejasā: nghĩa là Bậc chánh Đẳng Giác chinh phục ác giới bằng Giới lực, chinh phục ác hạnh bằng Thiện hạnh, chinh phục ác tuệ bằng Trí tuệ. Chinh phục sự vô phần bằng hữu phần. Chinh phục các bất thiện pháp là thiện pháp. Ngài thường hằng chói sáng như thế với năm oai lực như vậy. Dứt Pháp thoại nhiều người chứng đạt A La Hán cùng với các Thánh Quả.

Dịch Giả Cẩn Đề
Đại Đức Ānanda thấy rằng:
Quốc Vương sáng chói thế trời trăng,
Người tu thiền định hào quang sáng,
Tùy lúc ngày đêm có giảm tăng,
Một mình ánh sáng của Như Lai,
Bất luận ngày đêm, cứ sáng hoài,
Giới, đức, tuệ và thêm phúc hạnh,
Là năm Phật lực sáng hơn ai.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO ĀNANDA

155

Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app