Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển II
Phẩm A La Hán: Tích Trưởng Lão Ma Ha Ca Chiên Diên
“Yass’indriyāni samathaṅgatāni,
Assā yathā sārathinā sudantā;
Pahīnamānassa anāsavassa,
Devā’pi tassa pihayanti tādino”.
“Ai nhiếp phục các căn,
Như đánh xe điều ngự,
Mạn trừ, Lậu hoặc dứt,
Người vậy, Chư Thiên mến”.
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết, khi ngự tại Pubbārāma (Đông Phương Tự), đề cập đến Trưởng lão Mahākaccāyana (Ma Ha Ca Chiên Diên).
Một thuở nọ, trong ngày lễ Tự Tứ Tăng, Đức Bổn Sư ngự tọa bên dưới tòa nhà lầu của bà Visākhā (Thiện Chi), có đại chúng Thinh Văn và đệ tử theo hầu.
Trong thời gian ấy, Trưởng lão Mahākaccāyana cư ngụ trong xứ Avantī (A Quan Ti). Dầu cách trở xa xôi, Trưởng lão cũng đến góp mặt để khích lệ sự nghe Pháp. Do đó các vị Trưởng lão cao hạ, khi ngồi vào chỗ ngồi có chừa một chỗ trống để dành cho Trưởng lão Mahākaccāyana.
Đức Thiên Vương Đế Thích cùng với chư thiên hộ giá và đoàn tùy tùng từ hai cõi trời, đem lễ vật nhất là hương và tràng hoa của chư thiên đến cúng dường Đức Bổn sư.
Khi đứng lên không thấy Trưởng lão Mahākaccāyana, Thiên vương tự hỏi: “Sao Ngài Trưởng lão của ta không có mặt ở đây? Phải chi Ngài đến là tốt biết mấy?”.
Ngay khi ấy, Trưởng lão đến nơi, ngồi vào chỗ của mình cho mọi người thấy mình. Đức Đế Thích trông thấy Trưởng lão, nắm chắc lấy hai cườm chân của Trưởng lão, nói: “May quá, Trưởng lão của ta đã đến! Bạch Trưởng lão, Trẫm đã mong đợi Trưởng lão đến!”. Nói rồi Thiên Vương lấy hai tay xoa bóp chân của Trưởng lão cúng dường hương hoa, lễ vật, đảnh lễ Trưởng lão xong đứng nép qua một bên.
Các Tỳ khưu than phiền: “Đức Đế Thích lựa mặt mà cúng dường lễ bái, bao nhiêu bậc Đại Thinh Văn khác Thiên Vương không cung kính như vậy, còn khi gặp Ngài Mahākaccāyana thì lật đật nắm mắt cá chân: “May quá, Trưởng lão của ta đã đến. Bạch Trưởng lão, Trẫm mong chờ Trưởng lão đến!”. Nói rồi lấy hai tay xoa bóp chân, cúng dường lễ vật, đảnh lễ rồi đứng qua một bên”.
Nghe lời bàn luận của Chư Tăng, Đức Bổn Sư bảo: “Nầy các Tỳ khưu, những Tỳ khưu nào thu thúc lục căn như con trai Ta là Mahākaccāyana thì cả chư thiên và nhân loại thảy đều ái mộ.”.
Nói rồi, Ngài thuyết pháp giải thích thêm và tóm lược ý nghĩa bằng kệ ngôn nầy:
“Yass’indriyāni samathaṅgatāni,
Assā yathā sārathinā sudantā;
Pahīnamānassa anāsavassa,
Devā’pi tassa pihayanti tādino”.
“Đúng bực La Hán dồi trau,
Các căn tịch tịnh, làu làu, sạch trong.
Như người cỡi được ngựa hồng,
Phiền não, ngã mạn nơi lòng lặng yên.
Nhân loại cho đến chư thiên,
Thảy đều ái mộ nể kiêng đức lành.”
CHÚ GIẢI:
Yassa… : Tỳ khưu nào khéo điều ngự lục căn, như người kỵ mã khéo huấn luyện ngựa, cho đến mức tịch tịnh thuần hóa.
Pahīnamānassa: Tỳ khưu ấy dứt bỏ được chín cách ngã mạn (navavidham mānaṃ), là:
1. Seyyassa seyyohamasmīti māno: người cao thượng cho mình cao thượng hơn người.
2. Seyyassa sadīsohamasmīti māno: người cao thượng cho mình bằng người hay ngang hàng người.
3. Seyyassa hīnohamasmīti māno: người cao thượng cho mình đê hèn hơn người.
4. Sadisassa seyyohamasmīti māno: người ngang hàng với người nhưng cho mình là cao thượng hơn người.
5. Sadisassa sadisohamasmīti māno: người ngang hàng với người nhưng ỷ mình bằng người.
6. Sadisassa hīnohamasmīti māno: người ngang hàng với người nhưng cho mình thấp hèn hơn người.
7. Hīnassa seyyohamasmīti māno: người thấp hèn hơn người lại cho mình là cao thượng hơn người.
8. Hīnassa sadisohamasmīti māno: người thấp hèn hơn người lại cho mình bằng người.
9. Hīnassa hīnohamasmīti māno: người thấp hèn hơn người cũng lại cho mình đê hèn hơn người.
Anāsavassa: không còn bốn thứ Lậu hoặc.
Tādino: người có khả năng như vậy thì được chư thiên ước mong, nhân loại chờ đợi để trông thấy mặt.
Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ Khưu chứng đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn…
Dịch Giả Cẩn Đề
Trưởng lão Ma Ha Ca Chiên Diên,
Đến sau mà cũng được chư thiên,
Cúng dường lễ bái như là Phật,
Làm các sư phàm thấy đảo điên.
Phật dạy: Tỳ khưu tánh dịu hiền,
Lục căn thanh tịnh, đáng siêu nhiên,
Tâm không Ngã mạn, không Tà kiến,
Ắt được lòng yêu của Nhân thiên.
DỨT TÍCH TRƯỞNG LÃO MA HA CA CHIÊN DIÊN