Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển IV
Phẩm Tạp Lục: Tích Chuyện Tỳ Khưu Xứ Bhaddiya
292. “Yaṃ hi kiccaṃ tadapaviddhaṃ
Akiccaṃ pana kayirati
Unnaḷānaṃ pamattānaṃ
Tesaṃ vaḍḍhanti āsavā”.
293. “Yesañ ca susamāraddhā
Niccaṃ kāyagatā sati
Akiccaṃ te na sevanti
Kicce sātaccakārino
Satānaṃ sampajānānaṃ
Atthaṃ gacchanti āsavā”.
“Việc đáng làm, không làm,
Không đáng làm lại làm,
Người ngạo mạn phóng dật
Lậu hoặc ắt tăng trưởng”.
“Người siêng năng cần mẫn,
Thường thường quán thân niệm,
Không làm việc không đáng,
Gắng làm việc đáng làm,
Người tư niệm giác tỉnh,
Lậu hoặc được tiêu trừ”.
Pháp Cú nầy được Đức Đạo Sư thuyết lên khi Ngài ngự tại Jātiyavana trong thành Bhaddiya, đề cập đến vị Tỳ khưu xứ Bhaddiya.
Nghe rằng: Nhóm Tỳ khưu xứ Bhaddiya chỉ lo trang trí đôi dép. Đúng thật như lời Trưởng Lão Upāli nói:
– Cũng chính thời đó nhóm Tỳ khưu Bhaddiya chỉ lo làm các loại dép bằng cỏ ống, bằng lông thỏ, bằng cây, bằng vải Kambala, tự làm hoặc bảo người khác làm, lãng quên bổn phận (thọ trì Pháp Luật), sự vấn hỏi, Tăng thượng Giới (Adhisīla), Tăng thượng Tâm (Adhicitta), Tăng thượng Tuệ (Adipaññā), tu tập chỉ quán.
Chư Tỳ khưu thấy sự kiện đó mới bạch với Bậc Đạo Sư.
Bậc Đạo Sư khiển trách nhóm Tỳ khưu ấy:
– Nầy các Tỳ khưu! Các ngươi xuất gia với bổn phận nào, mà làm những việc không nên lại làm.
Rồi Ngài thuyết kệ ngôn:
292. Không làm những gì phải làm. Những gì không nên làm lại làm. Các lậu hoặc của người ngã mạn và không có tâm niệm ấy sẽ tăng trưởng.
293. Những ai hằng chuyên cần thực hành pháp NIỆM THÂN, không theo những gì không nên làm và chuyên cần làm những việc phải làm. Lậu hoặc của người suy tư và có tâm niệm ấy sẽ chấm dứt.
CHÚ GIẢI:
Yaṃ hi kiccaṃ: Là phận sự… thu thúc giới luật, trú nơi thanh vắng (rừng), hành đầu đà, hoan hỷ trong thiền định, đó là phận sự nên làm của Tỳ khưu từ khi xuất gia. Nhưng nhóm Tỳ khưu nầy bỏ quên bổn phận của mình.
Akiccaṃ…: Làm dù, dép, đế bát, vải lọc nước, dây lưng, hồng sắc. Đó là việc không nên làm của vị Tỳ khưu. Nghĩa là vị Tỳ khưu nào làm những việc đó, cả bốn lậu hoặc tăng trưởng cho vị Tỳ khưu ấy, ngã mạn ngày càng nhiều như cây sậy dựng đứng, đó gọi là bất khinh xuất, thất niệm.
Susamāraddhā: Là khéo phòng hộ.
Kāyagatāsati: Là pháp Niệm Thân.
Akiccaṃ: Là nhóm Tỳ khưu đó không dính mắc những gì không nên làm như dù…
Kicce: Là nên nhiệt tâm với những phận sự là nghiêm trì Giới Luật… từ khi xuất gia.
Sātaccakārino: Hằng tinh tấn thực hành liên tiếp, luôn có Tứ tỉnh giác.
1- Satthakasampajañña: Lợi lương tri.
2- Sappāyasampajañña: Thuận lương tri.
3- Gocarasampajaññā: Hành xứ lương tri.
4- Asammohasampajañña: Vô hồn lương tri.
Thì Tứ Lậu của vị Tỳ khưu nầy sẽ được chấm dứt.
Dứt thời Pháp thoại, nhóm Tỳ khưu đó chứng quả A La Hán. Pháp thoại mang lại kết quả lợi ích cho hội chúng vậy.
Dịch Giả Cẩn Đề
Tỳ khưu quý tộc thích làm sang,
Ngày tối chăm lo việc điểm trang,
Dép tốt, dèm thêu, y bát đẹp,
Tay chân óng chuốt tợ ông hoàng!
Chư Tăng tri túc thấy than phiền,
Phật quở: Thầy tu thiếu giới thiền,
Giải thoát không lo, lo trói buộc,
Quên mình quên mục đích đầu tiên.
DỨT TÍCH NHÓM TỲ KHƯU XỨ BHADDIYA