PHẬN SỰ TRÍ ĐỐI VỚI ĐẠO ĐẾ
“Taṃkho panidaṃdukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabba ’ nti me, bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃudapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.”
(“Đây là thánh đế về con đường dẫn đến sự diệt khổ và con đường này phải được tu tập. Như vậy, này các Tỳkheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, nhãn đã sanh khởi nơi ta, trí đã sanh khởi nơi ta, tuệ đã sanh khởi nơi ta; minh đã sanh khởi nơi ta, và quang đã sanh khởi nơi ta.”)
(Trí) biết rằng đạo đế (magga saccā) là một pháp phải được tu tập trong tự thân được gọi là phận sự trí (kicca ñāṇa). Nó là trí biết những gì phải được làm đối với khổ đế (dukkha saccā), tức biết khổ đế phải được tuệ tri. Biết những gì phải làm đối với đạo đế, tức biết đạo đế phải được tu tập trong tự thân mỗi người. Điều này cần phải ghi nhớ rõ ràng.
Việc biết đạo đế là pháp phải được tu tập được Đức Phật dạy lần đầu tiên trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân. Như vậy tu tập đạo (bát thánh đạo) chính là thực hành để chứng ngộ Niết Bàn hợp với ước nguyện của Đức Phật. Tuy nhiên, việc thực hành không thể bắt đầu với sự tu tập thẳng vào đạo đế liền. Hành giả phải bắt đầu với đạo đi trước (pubbabhāga magga) hay gọi cách khác là minh sát đạo (vipassanā magga).Như vậy để tu tập thánh đạo, hành giả phải bắt đầu với việc tu tập minh sát đạo.
Và để tu tập minh sát đạo, hành giả phải quán trên khổ đế (dukkha saccā). Khổ đế có nghĩa là năm thủ uẩn (upādānakkhandhā),đã được chúng tôi giải thích chi tiết ở Phần Bốn. Khi hành giả quán trên các uẩn xuất hiện ngay sát-na sanh là hành giả đã tu tập trí đầu tiên, tức trí phân biệt giữa đối tượng của sự biết và tâm hay biết. Trí này được theo sau bởi trí hiểu biết về quy luật nhân và quả. Khi hành giả tiếp tục, hành giả sẽ đi đến chỗ hiểu biết về bản chất của sự trôi chảy không ngừng, đó là sự sanh và diệt không ngừng của danh-sắc (nāma-rūpa). Vì lẽ danh sắc danh lên chỉ để diệt ở sát-na kế tiếp, nên nó là không bền, vô thường, khổ, vô ngã (vì nó sanh và diệt theo đường lối tự nhiên của nó). Sự chứng ngộ tự thân về những thực tại này là chánh kiến (sammā diṭṭhi). Như chúng tôi đã giải thích trước đây, khi chánh kiến được tu tập, chánh tư duy và các đạo(magga) khác cũng được tu tập. Và làm thế nào để tu tập những đạo này cũng đã được giải thích.
Có thể tóm tắt việc tu tập như sau: trước tiên ghi nhận bất cứ cảm giác xúc chạm nào mà hành giả trải nghiệm lúc ấy. Để đơn giản hoá pháp hành, chúng tôi khuyên nên bắt đầu với việc quán sự phồng và xẹp của bụng. Tất nhiên, khi đang quan sát sự phồng, xẹp của bụng, có thể hành giả sẽ bắt đầu suy nghĩ đến một điều gì khác. Trong trường hợp như vậy, hành giả phải ghi nhận những ý nghĩ ấy khi chúng khởi lên. Đối với những cảm giác đau nhức, tê cứng, nóng lạnh, ngứa ngáy…cũng vậy, hành giả phải ghi nhận khi chúng khởi sanh. Khi thay đổi những oai nghi của thân, khi thấy hay nghe một điều gì… cũng phải ghi nhận. Như vậy, trong khi quan sát mọi hiện tượng, ở mỗi sát-na ghi nhận, thì tri kiến hiểu biết về thực tại đúng như nó là, chánh kiến và minh sát đạo đã được tu tập. Khi minh sát thiết lập đầy đủ, bát thánh đạo cũng được tiến triển, vì thế việc quán trên các hiện tượng danh sắc hay các uẩn, khổ đế (dukkha saccā), cũng có nghĩa là sự tu tập bát thánh đạo.
Tóm Tắt:
- Chỉbằng cách tu tập đạo đi trước hay còn gọi là minh sát đạo, Thánh Đaọmới có thểđạt đến.
- Để tu tập minh sát đạo, hiện tượng thấy, nghe, hay còn gọi là khổ đế (dukkha saccā) phải được quan sát cẩn thận.
- Ở mỗi khoảnh khắc ghi nhận hiện tượng thấy, nghe hay khổ đế, bát thánh đạo kể như đã được tu tập.
Vì vậy, chúng tôi soạn lại cho dễ nhớ:
Căn bản, Đạo đi trước, Thánh đạo
Tu tập chúng dẫn đến Niết-Bàn.
Có một số người trước đây từng bị ấn tượng sai lầm cho rằng phải thâu thập kiến thức sách vở về các pháp uẩn và tính chất vô thường, khổ, vô ngã của chúng… thì mới đáp ứng được mục đích tu tập. Chỉ sau khi họ đã hành thiền hợp theo tinh thần tứ niệm xứ (sātipatthāna) và có được những kinh nghiệm đặc biệt, họ mới bắt đầu thấy ra những sai lầm của mình. Lúc đó họ dám tuyên bố công khai về những chứng nghiệm của mình rằng trừ phi một người thực sự thực hành việc quan sát các hiện tượng thấy, nghe,… ngay sát-na xuất hiện của chúng, bằng không phận sự tuệ tri, pariññā kiccā, khổ đế, vẫn chưa được hoàn thành, phận sự tu tập bát thánh đạo cũng vẫn chưa được hoàn thành. Đây là sự thú nhận của những người đa văn học rộng trong kinh điển. Như vậy, bằng kinh nghiệm tự thân họ đã hiểu được con đường chính đáng để đạt đến những chứng đắc cao hơn.
Giáo lý của Đức Phật thể hiện trong bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka) này cho chúng ta thấy rằng: “bát thánh đạo là pháp phải được tu tập bằng sự quán chiếu trên hiện tượng danh và sắc vào sát-na xuất hiện của chúng, là pháp phải được ghi nhận với tất cả sự nghiêm túc. Điều này cần phải ghi nhớ cẩn thận.” Biết phận sự phải làm đối với đạo đế là phận sự trí (kicca ñāṇa), trí này phải được học trước. Chỉ lúc đó minh sát đạo (vipassanā magga) mới có thể được tu tập bằng cách quan sát các hiện tượng danh sắc, hay các thủ uẩn (upadānakkhandhā) hay khổ đế (dukkha saccā) vào lúc chúng xuất hiện; và chỉ bằng cách tu tập minh sát đạo (vipassanā magga), hành giả mới có thể phát triển được thánh đạo (ariya magga) và chứng ngộ Niết-Bàn.