THỦ UẨN VÀO LÚC THẤY
Nếu xét từng hiện tượng riêng biệt theo chi tiết, thủ uẩn (upādānakkhandhā) rất dễ nhận ra mỗi khi người ta thấy một đối tượng. Cũng thế, mỗi khi nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, suy nghĩ, thủ uẩn (upādānakkhandhā) cũng nổi bật. Vào lúc thấy, con mắt thấy, đối tượng thấy và thức thấy rất dễ nhận ra. Trong thức thấy (nhãn thức) này bao gồm thọ (lạc hay khổ) của cái thấy, tưởng hay sự nhận thức về đối tượng được thấy, nỗ lực và hướng tâm để hoàn tất hành động thấy và trí biết rằng một đối tượng vừa được thấy.
Những người không hành thiền minh sát hay những người hành minh sát nhưng chưa đến giai đoạn thấy rõ được tính chất vô thường, khổ, và vô ngã, vẫn chấp thủ vào con mắt và đối tượng thấy, v.v… Họ xem cái nhìn của con mắt như Tôi (nhìn), hay như con mắt của tôi, hoặc thường, lạc,… Khi họ thấy thân và tứ chi, sự dính mắc phát sanh; “Tôi thấy thân của tôi; đây là tay của tôi, nó luôn luôn hiện hữu (thường hằng).” Khi thấy người khác, họ cũng thấy như có vẻ đó là một con người, một sinh vật vững bền. Do sự chấp thủ đã khởi lên với các hiện tượng như vậy, sắc của con mắt và sắc của đối tượng thấy (cảnh sắc) được gọi là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
Ngoài thọ lạc và thọ khổ trong trong cái thấy một đối tượng, cũng còn có thọ trung tính (bất khổbất lạc) mà ở đây để tiết kiệm không gian chúng tôi không đề cập. Thực sự ra những gì liên quan đến cảm thọ trung tính thiện đã được kể trong thọ lạc; và những gì liên quan đến thọ trung tính bất thiện đã được kể trong thọ khổ rồi. Cả thọ lạc lẫn thọ khổ đều làm phát sanh sự chấp thủ: “Nó là Tôi; Nó là cảm thọ của tôi; Nó kéo dài mãi mãi; Tôi cảm thấy khoẻ; Tôi cảm thấy khủng khiếp.” Do bị dính mắc theo cách này, thọ lạc và thọ khổ (có mặt) trong cái thấy một đối tượng được gọi là Thọ Thủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
Khi nhận thức một đối tượng, sự chấp thủ cũng phát sanh: Tôi biết nó; Tôi không quên nó. Vì thế nó được gọi là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
Vận dụng ý chí để thấy một đối tượng là Cetanā (Tư). Trong từ vựng kinh điển, nó được gọi là sự xúi giục, sự thúc đẩy, sự thôi thúc. Tuy nhiên ý định hay tư biểu thị ý nghĩa của nó rõ ràng hơn. Tác ý (manasikāra), đi cùng với tư (cetanā), là suy nghĩ về hay hướng tâm về một đối tượng. Rồi sau đó có xúc (phassa) xen vào nữa, nhưng vì cetanā và manasikāra là các yếu tố nổi bật nên ở đây chỉ đề cập hai tâm sở này. Hai tâm sở tư (ý định) và tác ý (hướng tâm) thuộc hành uẩn có liên quan trong hành động thấy và có sự dính mắc vào cái thấy như Tôi thấy…nên nó được gọi là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā). Từ Saṅkhāraở đây có nghĩa là điều kiện; trong trường hợp của cái thấy, nó có nghĩa là tạo ra những những điều kiện để hoàn tất hành động thấy.
Chỉ biết rằng một đối tượng đã được thấy là nhãnthức, hành động này cũng có sự chấp thủ vào đó như Tôi thấy, Tôi biết, cái Tôi đang thấy là trường cửu. Do sự chấp thủ như vậy có thể xảy ra nên thức được gọi là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
Tóm lại:
- Vào lúc thấy con mắt và đối tượng của sự thấy (cảnh sắc) là Sắc Thủ Uẩn (rūpa uppādānakkhandhā).
- Thọ lạc hay thọ khổ có mặt là ThọThủ Uẩn (vedanā upādānakkhandhā).
- Nhận thức hay ghi nhớ đối tượng là Tưởng Thủ Uẩn (saññā upādānakkhandhā).
- Ý muốn thấy và xoay sự chú ý đến đối tượng là Hành Thủ Uẩn (saṅkhāra upādānakkhandhā).
- Chỉ biết rằng một đối tượng đã được thấy là Thức Thủ Uẩn (viññāṇa upādānakkhandhā).
Mỗi lần thấy một đối tượng ghi nhận “thấy”, “thấy” là để giúp người hành thiền thấy ra năm uẩn danh và sắc đã nói đúng như chúng thực sự là và sau khi đã thấy được chúng, hãy giữ ở giai đoạn chỉ có cái thấy và không để bị chấp thủ vào chúng như: Tôi, của tôi, hay như thường, lạc, tịnh,…
Để giúp quý vị hiểu được mục đích của việc ghi nhận từng hiện tượng, chúng tôi lập ra những nguyên tắc căn bản của việc thực hành minh sát như sau:
- Tu tập minh sát bằng cách quán cái gì? – Bằng cách ghi nhận đúng như chúng thực sự là năm uẩn vốn có thể gây ra sự chấp thủ.
- Khi nào và vì mục đích gì chúng (năm uẩn) phải được ghi nhận? – Chúng phải được ghi nhận vào sát na sanh để cắt đứt sự chấp thủ. Vì nếu không ghi nhận vào sát na sanh sẽ mở đường cho sự chấp thủ vào chúng như thường, lạc hay ngã. Ngoài việc xua tan chấp thủ, việc ghi nhận năm uẩn mỗi lần chúng khởi lên sẽ phát triển được minh sát trí rõ ràng vào bản chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng.
Ở đây, “vào sát na sanh” có nghĩa là vào lúc thấy hay nghe… và “mỗi lần chúng khởi lên” biểu thị mỗi hành động thấy, nghe… khi nó xảy ra.