Nội Dung Chính
Cẩm Nang Nghiên Cứu Thắng Pháp Tập I
Chương Ba: Thọ (Vedanā), Nhân (Hetu) & Sự (Kicca)
Hôm nay, chúng ta nghiên cứu chương thứ ba của cuốn Cẩm Nang CMA. Chương thứ nhất nghiên cứu tâm thức – 89 hay 121 tâm. Chương thứ hai nghiên cứu 52 tâm sở (Cetasika) và rồi là những sự kết hợp của những tâm (Citta) và những tâm sở (Cetasika) theo hai phương thức. Chương thứ ba nghiên cứu cả hai, những tâm (Citta) và những tâm sở (Cetasika), theo những phương thức khác.
Sáu Phần
Chương này được chia thành sáu phần.
- Phần thứ nhất là “Phân tích theo Vedanā”, tức là sự phân tích tâm theo cảm thọ.
- Phần thứ hai là “Phân tích theo Hetu”, tức là theo nhân.
- Phần thứ ba là “Phân tích theo Kicca”, tức là theo chức năng (hay theo sự).
- Phần thứ tư là “Phân tích theo Dvāra”, tức là theo môn.
- Phần thứ năm là “Phân tích theo Ārammaṇa”, tức là theo đối tượng (hay theo cảnh).
- Phần thứ sáu là “Phân tích theo Vatthu”, tức là theo vật.
Theo Thọ
Phần thứ nhất là “Phân tích theo Cảm Thọ”. Các bạn đã gặp những cảm thọ trong chương thứ nhất và cũng trong chương thứ hai. Có những sự phân chia khác nhau về cảm thọ. Đôi lúc thọ được nói là có năm, đôi lúc là có ba, đôi lúc là có hai và đôi lúc chỉ có một. Tính theo hiệu quả chất lượng của chúng (tức là tính theo bản chất hay đặc tính của chúng), thì thọ được nói là có ba. Đôi lúc thọ được liệt kê là có ba, đó là thọ lạc (Sukha), thọ khổ (Dukkha) và thọ xả (Upekkhā). Đức Phật cũng có dạy thọ trong các quyền. Trong chương thứ bảy, các bạn sẽ tìm thấy 22 quyền (xem CMA, II, §18, p.273). Có những thọ trong số 22 quyền này. Ở đó, Đức Phật dạy năm loại thọ hay năm quyền về thọ. Trong bài giảng về quyền đó, năm thọ được thuyết giảng. Chúng là thọ lạc (Sukha), thọ khổ (Dukkha), thọ hỷ (Somanassa), thọ ưu (Domanassa) và thọ xả (Upekkhā). Các bạn đã rất quen thuộc với năm hay ba thọ này. Khi Đức Phật nói có ba thọ, ý của Ngài là thọ lạc (Sukha) và thọ hỷ (Somanassa) được bao gồm trong Sukha, và thọ khổ (Dukkha) và thọ ưu (Domanassa) được bao gồm trong Dukkha. Thật ra, năm thọ và ba thọ là giống nhau. Khi dạy về ba thọ, Đức Phật dùng từ “Sukha”. Ở đây, Sukha không chỉ có nghĩa là thọ lạc (Sukha) ở trong năm thọ (Vedanā). Sukha ở đây có nghĩa là cả thọ lạc (Sukha) và thọ hỷ (Somanassa). Và Dukkha không chỉ có nghĩa là thọ khổ (Dukkha), mà là cả thọ khổ (Dukkha) và thọ ưu (Domanassa). Upekkhā là thọ xả (Upekkhā).
Đôi lúc, Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ khưu, chỉ có hai thọ.” Chúng là Sukha và Dukkha. Trong trường hợp này, Sukha bao gồm cả Sukha và Upekkhā nếu tính thọ (Vedanā) có ba, tức là bao gồm cả thọ lạc (Sukha), thọ hỷ (Somanassa) và thọ xả (Upekkhā) nếu tính thọ có năm. Và Dukkha thì chỉ là Dukkha trong ba thọ, tức là bao gồm thọ khổ (Dukkha) và thọ ưu (Domanassa) trong năm thọ.
Đôi lúc, Đức Phật lại nói bất kỳ cảm thọ gì cũng đều là Dukkha. Tức là chỉ có một thọ mà thôi và đó là Dukkha. Đức Phật đã nói: “Cách nói này của Như Lai muốn ám chỉ đến hay dựa trên sự vô thường của các pháp hành.” Vì các pháp hành là hữu vi, chúng là vô thường. Cái gì là vô thường, thì nó là lạc (Sukha) hay khổ (Dukkha)? Nó là khổ (Dukkha). Bất cứ cái gì là vô thường là khổ (Dukkha). Cho nên, chỉ có một thọ (Vedanā) thôi, tức là thọ khổ (Dukkha). Chúng ta tìm thấy thọ (Vedanā) được nhắc đến bằng nhiều cách. Trong một vài bài kinh (Sutta), thọ (Vedanā) được nói là có nhiều hơn năm. Nhưng chúng ta không cần đi sâu hơn mà chỉ cần biết Vedanā là một thọ, hai thọ, ba thọ và năm thọ.
Vì theo bài giảng về những quyền thì thọ có năm, cho nên chúng ta nên hiểu đặc tính của mỗi thọ. Thọ có đặc tính là tận hưởng – thật ra thì không hẳn là tận hưởng – trải nghiệm hương vị của đối tượng. Đó là đặc tính chung của thọ. Thọ lạc (Sukha) có đặc tính là trải nghiệm sự xúc chạm đáng được khao khát. Chúng ta đang nói đến năm thọ (Vedanā); thọ khổ (Dukkha) có đặc tính là trải nghiệm sự xúc chạm không được khao khát. Thọ hỷ (Somanassa) có đặc tính là trải nghiệm đối tượng đáng được khao khát. Thọ ưu (Domanassa Vedanā) có đặc tính là trải nghiệm đối tượng không được khao khát. Thọ xả (Upekkhā Vedanā) có đặc tính là trải nghiệm đối tượng trung lập.
Chúng ta hãy tìm xem những tâm nào được đi kèm theo bởi thọ nào. Nếu các bạn quen thuộc với chương thứ nhất, thì việc này không khó đâu. Những tâm (Citta) nào được đi kèm theo bởi cảm thọ lạc (Sukha)? Có bao nhiêu tâm? Chỉ có một tâm (Citta) được đi kèm theo bởi thọ lạc (Sukha), tức là thân thức thọ lạc (Sukha-sahagata Kāya- viññāṇa). Tâm nào được đi kèm theo cảm thọ khổ (Dukkha)? Cũng chỉ có một, đó là thân thức thọ khổ (Dukkha-sahagata Kāya-viññāṇa). Những tâm nào được đi kèm theo bởi thọ hỷ (Somanassa)? Có bao nhiêu tâm? Có 62 tâm. Rồi bao nhiêu tâm được đi kèm theo bởi thọ ưu (Domanassa)? Chỉ có hai tâm được đi kèm theo bởi thọ ưu (Domanassa), tức là hai tâm sân (Dosamūla Citta). Thọ xả (Upekkhā) sanh lên trong bao nhiêu tâm? Có tất cả 55 tâm (Citta) sanh lên với thọ xả (Upekkhā). Chúng ta hãy nghiên cứu chi tiết một chút. Có 62 tâm với thọ hỷ (Somanassa): bốn trong những tâm bất thiện (Akusala Citta), hai trong những tâm vô nhân (Ahetuka Citta), mười hai trong những tâm tịnh hảo dục giới (Kāmāvacara Sobhana Citta), mười hai tâm nữa trong những tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta) và 32 trong những tâm Siêu thế (Lokuttara Citta). Như vậy, chúng ta có tất cả 62 tâm. Đối với thọ xả (Upekkhā), chúng ta có sáu tâm trong số những tâm bất thiện (Akusala), mười bốn trong những tâm vô nhân (Ahetuka), mười hai trong những dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana), ba trong những sắc giới (Rūpāvacara), mười hai trong vô sắc giới (Arūpāvacara) và tám trong những tâm Siêu thế (Lokuttara Citta). Cho nên, có tất cả là 55. Một tâm (Citta) được đi kèm theo bởi thọ khổ (Dukkha). Một tâm (Citta) được đi kèm theo bởi thọ lạc (Sukha). 62 tâm (Citta) được đi kèm theo bởi thọ hỷ (Somanassa). Hai tâm (Citta) được đi kèm theo thọ ưu (Domanassa). Và 55 tâm (Citta) được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā). Đó là tính theo năm thọ.
Bây giờ, nếu tính theo ba thọ, thì có bao nhiêu được đi kèm theo bởi thọ lạc (Sukha)? 62 cộng một, cho nên chúng ta có 63. Bao nhiêu được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā)? 55 tâm được đi kèm theo thọ xả (Upekkhā) như cũ. Bao nhiêu được đi kèm theo bởi thọ khổ (Dukkha)? Hai tâm thọ ưu (Domanassa-sagahata Citta) và một tâm với cảm giác thân xác đau khổ (Dukkha) thì được đi kèm theo bởi thọ khổ (Dukkha). Một lần nữa, có bao nhiêu được đi kèm theo bởi cảm thọ lạc (Sukha)? Ở đây, 63 tâm được đi kèm theo bởi thọ lạc (Sukha). Có bao nhiêu được đi kèm theo bởi thọ khổ (Dukkha)? Ba tâm được đi kèm theo bởi thọ khổ (Dukkha). Có bao nhiêu được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā)? 55 tâm được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā).
Các bạn có thể nghiên cứu bảng nêu về những cảm thọ trong cuốn CMA (xem CMA, III, Table 3.1, p.118). Tôi đã giải thích cho các bạn tại sao nhãn thức và vân vân được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā) trong khi thân thức thì lại là thọ lạc (Sukha) hoặc là thọ khổ (Dukkha). Các bạn có nhớ không? Nếu không, các bạn có thể đọc trong CMA (xem CMA, III, Guide to §4, p.117-119). Khi sự va chạm là giữa những vật chất mềm, thì chúng ta có thọ xả (Upekkhā). Khi có sự va chạm giữa mềm và cứng, thì chúng ta có thọ lạc (Sukha) hoặc thọ khổ (Dukkha). Ví dụ sau đây được đưa ra: Khi các bạn đặt một quả bóng bằng bông trên một thanh đe và gõ nó bằng một quả bóng bằng bông khác, thì sẽ không có nhiều tác động đâu. Sự tác động sẽ là mềm và yếu. Cho nên, chúng ta có thọ xả (Upekkhā). Nhưng khi các bạn gõ quả bóng bằng một cái búa, cái búa sẽ đi xuyên qua quả bóng bằng bông và chạm vào thanh đe, cho nên sẽ có sự tác động lớn. Nếu đối tượng là đáng được khao khát, thì chúng ta có thọ lạc (Sukha). Nếu đối tượng là không được khao khát, thì chúng ta có thọ khổ (Dukkha). Nếu các bạn quen thuộc với hai chương đầu tiên, thì sự phân tích này rất là dễ dàng.
Theo Nhân
Phần tiếp theo là “Phân tích theo Hetu”, tức là “Phân tích theo Nhân”. Có bao nhiêu nhân? Có sáu nhân. Chúng là tham (Lobha), sân (Dosa), si (Moha) và vô tham (Alobha), vô sân (Adosa), vô si (Amoha). Các bạn có thể tìm thấy cả sáu nhân này trong 52 tâm sở (Cetasika). Các bạn tìm thấy tham (Lobha) ở đâu? Tham được tìm thấy trong những tâm sở (Cetasika) bất thiện. Sân (Dosa) thì được tìm thấy ở đâu? Nó được tìm thấy trong những tâm sở (Cetasika) bất thiện. Si (Moha) thì được tìm thấy ở đâu? Nó cũng được tìm thấy trong những tâm sở (Cetasika) bất thiện. Các bạn tìm thấy vô tham (Alobha) ở đâu? Vô tham được tìm thấy trong mười chín tâm sở tịnh hảo biến hành. Vô sân (Adosa) cũng được tìm thấy trong mười chín tâm sở tịnh hảo biến hành. Và vô si (Amoha) thì được liệt kê riêng biệt là trí tuệ (Paññindriya). Tham (Lobha), sân (Dosa) và si (Moha) là bất thiện (Akusala). Vô tham (Alobha), vô sân (Adosa) và vô si (Amoha) là những đối nghịch của tham (Lobha), sân (Dosa) và si (Moha). Chúng là thiện (Kusala), bất thiện (Akusala) hay là cái gì khác? Có phải chúng chỉ là thiện (Kusala) bởi vì chúng sanh lên với những tâm tịnh hảo (Sobhana Citta) không? Các bạn nên nhớ rằng trong những tâm tịnh hảo (Sobhana Citta), có cả những tâm quả (Vipāka Citta) và những tâm duy tác (Kiriya Citta). Tham (Lobha), sân (Dosa) và si (Moha) là những nhân bất thiện (Akusala). Vô tham (Alobha), vô sân (Adosa) và vô si (Amoha) là những nhân thiện (Kusala) và cũng là những nhân quả (Vipāka) và duy tác (Kiriya). Quả (Vipāka) và duy tác (Kiriya) được gọi chung là vô ký (Abyākata). Đây là một thuật ngữ của Thắng Pháp (Abhidhamma). Abyākata có nghĩa đen là vô ký – tức là không công bố hay không tuyên bố là thiện (Kusala) hay bất thiện (Akusala). Nếu nó không là thiện (Kusala) và cũng không là bất thiện (Akusala), nó phải là quả (Vipāka) hay là duy tác (Kiriya). Quả (Vipāka) và duy tác (Kiriya) được gọi là vô ký (Abyākata). Rūpa (sắc pháp) thì cũng được gọi là vô ký (Abyākata). Ba nhân đầu là bất thiện (Akusala). Ba nhân sau là thiện (Kusala) và vô ký (Abyākata). Có nghĩa là thiện (Kusala), quả (Vipāka) và duy tác (Kiriya). Ba nhân đầu là những nhân xấu. Ba nhân sau là những nhân tốt đẹp.
Từ “Hetu” trong Pāḷi thông thường có nghĩa là điều kiện, lý do hay là nguyên nhân. Trong Thắng Pháp (Abhidhamma), Hetu có một ý nghĩa đặc biệt. Hetu ám chỉ cho sáu tâm sở (Cetasika) này mà thôi và được so sánh với những gốc rễ. Khi có gốc rễ, cây sẽ vững chắc, cây sẽ ổn định, cây sẽ mạnh mẽ. Cây không có gốc rễ sẽ ngã đổ rất dễ dàng. Cho nên, khi cây không có gốc rễ, nó được nói là yếu đuối, không vững chắc. Khi những tâm được đi kèm theo với nhân, chúng được nói là vững chắc. Chúng được nói là vững mạnh. Đó là lý do tại sao những tâm vô nhân (Ahetuka Citta) được xem là yếu bởi vì chúng không có nhân.
Bây giờ, chúng ta sẽ tìm xem bao nhiêu tâm (Citta) được đi kèm theo với bao nhiêu nhân. Có một bảng nêu trong CMA. Tôi chưa có lập bảng nêu riêng của tôi. Các bạn hãy nhìn vào bảng nêu đó (xem CMA, III, Table 3.2, p.121). Những bảng nêu và những biểu đồ này rất hữu ích. Các bạn có thể hiểu một cách rất dễ dàng chỉ bằng cách nhìn vào chúng. Để tôi hỏi các bạn về những tâm bất thiện (Akusala Citta). Có bao nhiêu nhân (Hetu) đi kèm theo với tám tâm tham (Lobhamūla Citta)? Hai nhân, tham (Lobha) và si (Moha), đi kèm theo những tâm tham (Lobhamūla Citta). Bao nhiêu nhân đi kèm theo những tâm sân (Dosamūla Citta)? Hai nhân, sân (Dosa) và si (Moha), đi kèm theo những tâm sân (Dosamūla Citta). Và bao nhiêu nhân đi kèm theo những tâm si (Mohamūla Citta)? Chỉ có một nhân đi kèm theo hai tâm si (Mohamūla Citta). Một nhân đó là gì? Đó là si (Moha). Tám tâm tham (Lobhamūla Citta) được đi kèm theo bởi tham (Lobha) và si (Moha). Hai tâm sân (Dosamūla Citta) được đi kèm theo bởi sân (Dosa) và si (Moha). Hai tâm bất thiện (Akusala Citta) cuối cùng được đi kèm theo bởi chỉ si (Moha).
Chúng ta không cần phải quan tâm đến mười tám tâm (Citta) tiếp theo vì chúng là vô nhân. Chúng là những tâm vô nhân (Ahetuka). Trong 24 tâm tịnh hảo dục giới (Kāmāvacara Sobhana Citta), chúng ta hãy gọi tám tâm đầu tiên là những tâm thiện (Kusala Citta), và hai tâm đầu được đi kèm theo bởi bao nhiêu nhân (Hetu)? Có vô tham (Alobha) không? Có, có vô tham (Alobha). Có vô sân (Adosa) không? Có, có vô sân (Adosa). Có vô si (Amoha) không? Có, có vô si (Amoha). Vô si (Amoha) là trí tuệ (Paññā). Tâm (Citta) thứ nhất và thứ hai được đi kèm theo bởi trí tuệ (Ñāṇa-sampayutta). Hai tâm đầu tiên được đi kèm theo bởi ba nhân. Tâm thứ ba và thứ tư chỉ được đi kèm theo bởi hai nhân. Không có vô si (Amoha). Tâm thứ năm và thứ sáu được đi kèm theo bởi ba nhân – vô tham (Alobha), vô sân (Adosa) và vô si (Amoha). Tâm thứ bảy và thứ tám được đi kèm theo bởi hai nhân – vô tham (Alobha) và vô sân (Adosa). Tám tâm quả dục giới hữu nhân (Sahetuka Kāmāvacara Vipāka Citta) thì cũng giống như vậy. Tâm thứ nhất và thứ hai được đi kèm theo bởi ba nhân. Tâm thứ ba và thứ tư được đi kèm theo bởi hai nhân. Tâm thứ năm và thứ sáu được đi kèm theo bởi bao nhiêu nhân? Chúng được đi kèm theo bởi ba nhân. Tâm thứ bảy và thứ tám được đi kèm theo bởi bao nhiêu nhân? Chúng được đi kèm theo bởi hai nhân. Điều này cũng đúng cho những tâm duy tác dục giới hữu nhân (Sahetuka Kāmāvacara Kiriya). Tức là tâm thứ nhất và thứ hai có ba nhân. Tâm thứ ba và thứ tư có hai nhân. Tâm thứ năm và thứ sáu có ba nhân. Tâm thứ bảy và thứ tám có hai nhân. Rất tốt.
Những tâm còn lại – sắc giới (Rūpāvacara), vô sắc (Arūpāvacara) và Siêu thế (Lokuttara) – được đi kèm theo bởi bao nhiêu nhân? Chúng được đi kèm theo bởi ba nhân. Không có tâm (Citta) nào chỉ có hai nhân trong số những tâm sắc giới (Rūpāvacara), tâm vô sắc (Arūpāvacara) và tâm Siêu thế (Lokuttara Citta). Tất cả chúng là những tâm (Citta) tam nhân.
Các bạn có thể nhìn vào bảng nêu (Table 3.2) trên trang 121 trong CMA. Những nhân là tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si. Như vậy, có sáu nhân. Những tâm (Citta) được liệt kê là tâm có nhân tham. Tức là những tâm tham (Lobhamūla Citta). Những tâm có nhân sân là những tâm sân (Dosamūla Citta). Những tâm có nhân si là những tâm si (Mohamūla Citta). Những tâm vô nhân là những Ahetuka Citta. Những tâm dục giới tịnh hảo hợp trí là tâm thứ nhất, thứ hai, thứ năm, thứ sáu. Những tâm dục giới tịnh hảo ly trí là tâm thứ ba, thứ tư, thư bảy, thứ tám. Chúng có tất cả là mười hai, bốn mỗi thứ. Cao cả hay cao siêu ở đây có nghĩa là Đáo đại (Mahaggata), tức là sắc giới (Rūpāvacara) và vô sắc (Arūpāvacara) chung với nhau. Chúng bao gồm 27 tâm (Citta). Siêu thế (Lokuttara) thì là tám ở đây, cho nên có tám tâm Siêu thế. Ở cuối bảng nêu trong sách, các bạn thấy những con số hai, hai và vân vân. Hai có nghĩa là gì? Chúng được đi kèm theo bởi hai nhân. Ba có nghĩa là được đi kèm theo bởi ba nhân.
Có bao nhiêu tâm (Citta) được đi kèm theo bởi một nhân? Hai tâm si (Mohamūla Citta) được đi kèm theo bởi một nhân. Bao nhiêu tâm được đi kèm theo bởi hai nhân? Tám tâm tham (Lobhamūla Citta), hai tâm sân (Dosamūla Citta) và mười hai tâm dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Citta) ly trí được đi kèm theo bởi hai nhân. Như vậy, có tất cả là 22. Cho nên, có 22 tâm được đi kèm theo bởi hai nhân. Hai nhân đó là gì? Các bạn phải phân biệt ở đây. Đối với tâm tham (Lobhamūla), chúng là tham (Lobha) và si (Moha). Đối với tâm sân (Dosamūla), chúng là sân (Dosa) và si (Moha). Đối với dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana), chúng là vô tham (Alobha) và vô sân (Adosa). Có bao nhiêu tâm được đi kèm theo bởi ba nhân? Có mười hai cộng 27 cộng tám tức là 47. 47 tâm được đi kèm theo bởi ba nhân. Có bao nhiêu tâm không được đi kèm theo bởi nhân nào cả? Mười tám Ahetuka Citta là vô nhân. Chúng ta phải hiểu là có mười tám tâm không có nhân nào, có hai tâm có một nhân, có 22 tâm có hai nhân và có 47 tâm có ba nhân. Điều này sẽ rất là dễ nếu các bạn quen thuộc với sự kết hợp tâm và tâm sở (Citta- Cetasika) đã được trình bày trong chương thứ hai. Hôm nay chúng ta học những phần rất dễ. Phần một và hai thì không khó nếu các bạn quen thuộc với chương thứ nhất và thứ hai và nếu các bạn quen thuộc với những kết hợp tâm và tâm sở (Citta-Cetasika). Phần thứ nhất liên quan đến thọ. Phần hai liên quan đến những cái được gọi là nhân, tức là Hetu.
Theo Chức Năng (Sự)
Chúng ta hãy đi đến phần tiếp theo. Phần tiếp theo sẽ nghiên cứu về chức năng. Mỗi tâm (Citta) trong 89 hay 121 tâm (Citta) đều có một chức năng riêng của nó. Khi sanh lên, chúng sanh lên và thực hiện chức năng của chúng rồi biến mất.
Có tất cả bao nhiêu chức năng? Có mười bốn chức năng. Tất cả 89 tâm (Citta) hoạt động theo ít nhất một trong mười bốn chức năng này. Chức năng thứ nhất là tái sanh hay kết nối. Thuật ngữ Pāḷi là Paṭisandhi. “Paṭisandhi” có nghĩa là kết hợp hay kết nối.
Để hiểu điều này, các bạn phải hiểu tâm (Citta) đầu tiên trong một kiếp sống. Chúng ta hãy nói về nhân loại. Đối với một con người, cuộc sống bắt đầu với sự thụ tinh. Sự thụ tinh ở đây được gọi là tái sanh. Tại thời điểm thụ tinh, tức là tại thời điểm tái sanh thành một con người, một loại tâm sanh lên, đó là tâm quả (Vipāka). Cùng với tâm này, các tâm sở (Cetasika) cũng sanh lên. Với tâm (Citta) và những tâm sở (Cetasika), một vài sắc pháp do nghiệp (Kamma) cũng sanh lên. Cái mà chúng ta gọi là sự tái sanh là một nhóm của ba yếu tố này: tâm tục sanh, những tâm sở (Cetasika) và một chút sắc pháp (Rūpa)1.
Tâm tục sinh thì luôn luôn là một tâm quả (Vipāka Citta). Nó có thể là tâm quả dục giới hữu nhân (Sahetuka Kāmāvacara Vipāka); nó có thể là tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka); nó có thể là tâm quả vô sắc (Arūpāvacara Vipāka) hay nó có thể là quả (Vipāka) của những tâm vô nhân (Ahetuka) – không phải tất cả những tâm vô nhân (Ahetuka), mà chỉ là hai Upekkhā Santīraṇa, tức là hai tâm quan sát thọ xả.
Trong một đời sống nào đó, tâm quả (Vipāka) này sanh lên trước tiên. Rồi thật ra tâm này lặp lại nhiều lần trong suốt đời sống đó. Tâm quả (Vipāka) này là kết quả của nghiệp (Kamma). Nghiệp (Kamma) có năng lực rất mạnh. Nó có thể cho kết quả này trong suốt đời sống đó, chứ không phải chỉ một lần. Tại thời điểm tái sanh, nó được gọi là tâm tục sanh. Sau này, trong đời sống, nó được gọi bằng một tên khác. Và khi một người chết đi, tâm tử của ông ta cũng là cùng tâm này. Như vậy, trong một cuộc sống, tâm tục sinh, tâm “trong suốt đời sống” và tâm tử là một và cùng loại. Khi nó sanh lên vào thời điểm đầu tiên của một kiếp sống, chức năng của nó là nối kết hai kiếp sống với nhau. Đó là lý do tại sao nó được gọi là kết hợp hay kết nối, tức là Paṭisandhi. Mặc dầu nó được gọi là “kết nối”, nhưng tâm tục sanh (Paṭisandhi) thuộc vào kiếp sống sau. Khi chúng ta nói một cái gì đó là một mối nối, chúng ta thường nghĩ cái đó không thuộc vào cái trước cũng không thuộc vào cái sau. Nó ở ngay giữa. Ở đây, mặc dầu chúng ta gọi nó là một mối nối, nhưng nó thuộc vào kiếp sống sau.
Tâm này khi sanh lên lại nhiều lần trong đời sống thì được gọi bằng một tên khác. Trong lúc này, chức năng của nó là duy trì đời sống. Nếu nó không sanh lên nữa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ kết thúc ngay sau khi tục sinh. Bởi vì tâm này sanh lên nhiều lần, cuộc sống của chúng ta tiếp diễn cho đến lúc chết. Thật ra, một đời sống này được tiếp nối theo bởi một đời sống khác. Như vậy, trong một đời sống, tâm này sanh lên lại nhiều lần. Khi nó sanh lên trong suốt đời sống, nó được gọi là hữu phần, tức là một thành phần của đời sống hay lý do của đời sống. Trong Pāḷi, nó được gọi là Bhavaṅga. Khi tâm quả (Vipāka) đó sanh lên lại nhiều lần trong suốt cuộc sống, nó thực hiện chức năng của Bhavaṅga, tức là duy trì đời sống. Nó cùng là một tâm với tâm tục sinh (Paṭisandhi), nhưng nó có một chức năng khác. Tâm hữu phần (Bhavaṅga) này diễn tiến trong suốt đời sống của chúng ta khi không có tâm thức năng động sanh lên. Tâm thức năng động nghĩa là khi chúng ta thấy một cái gì đó chẳng hạn, thì nhãn thức và cả lộ trình tâm sanh lên. Khi chúng ta nghe một cái gì đó, thì nhĩ thức và cả lộ trình tâm sanh lên. Khi những lộ trình tâm thức như vậy sanh lên, dòng hữu phần (Bhavaṅga) dừng lại. Những tâm năng động này sẽ thay thế vào vị trí của tâm hữu phần (Bhavaṅga). Sau mười bảy sát-na tâm (trong lộ trình ngũ môn) hay mười sát-na tâm (trong lộ trình ý môn), chúng sẽ diệt đi hay chấm dứt. Sau khi chúng diệt đi, dòng hữu phần (Bhavaṅga) lại tiếp tục. Những sát-na hữu phần (Bhavaṅga) diễn tiến trong đời sống của chúng ta giữa những sát-na tâm năng động này, giữa những lộ trình tâm năng động này. Tôi gọi những tâm hữu phần (Bhavaṅga) là vùng đệm giữa những sát-na tâm năng động. Nó cứ diễn tiến như vậy. Sự sanh lên của những tâm hữu phần (Bhavaṅga Citta) thì rất rõ rệt khi chúng ta ngủ say không mơ. Khi chúng ta ngủ, thì chỉ có những sát-na tâm hữu phần (Bhavaṅga) diễn tiến – không có những sát-na tâm năng động.
Như vậy, tâm (Citta) đầu tiên trong cuộc sống của chúng ta có chức năng tục sinh hay kết nối hai kiếp sống, tức là Paṭisandhi. Khi nó sanh lên lần đầu tiên trong đời sống của chúng ta, nó làm chức năng tục sinh. Khi nó sanh lên sau đó trong suốt cuộc sống, nó có chức năng của Bhavaṅga, tức là duy trì đời sống. Khi chúng ta chết, nó sanh lên và làm nhiệm vụ tử. Đến lúc này, chúng ta đã bàn về ba chức năng của tâm (Citta) – tục sinh (Paṭisandhi), duy trì đời sống (Bhavaṅga) và tử (Cuti).
Để hiểu về những chức năng còn lại, các bạn cần phải hiểu tiến trình tâm thức. Tôi nghĩ các bạn đã quen thuộc với tiến trình tâm thức. Tôi đã giảng cho các bạn về tiến trình tâm thức khi chúng ta học những tâm vô nhân (Ahetuka Citta) – thấy, tiếp thâu, quan sát và vân vân. Khi đối tượng (cảnh) xuất hiện trước các giác quan, hiện tượng này được gọi là sự tác động. Ví dụ, khi cảnh sắc rơi vào vùng nắm bắt của mắt, thì cảnh sắc này tác động lên con mắt và cũng tác động lên dòng hữu phần (Bhavaṅga). Khi đối tượng đó rơi vào vùng nắm bắt của con mắt, thì dòng hữu phần (Bhavaṅga) bị khuấy động. Dòng hữu phần (Bhavaṅga) rung động trong một sát-na. Rồi sau khi sanh lên một sát-na nữa, nó dừng lại. Nó lập tức được đi theo sau bởi một loại tâm khác. Tâm này hướng tâm trí về đối tượng. Sự hướng tâm trí này là một trong những chức năng còn lại của tâm thức. Chức năng này được thực hiện thông qua tâm (Citta) nào? Thật ra, nó được thực hiện thông qua hai tâm (Citta): Pañcadvārāvajjana (hướng ngũ môn) và Manodvārāvajjana (hướng ý môn). Như vậy chúng ta có chức năng hướng tâm này. Từ sát-na đó trở đi, tâm trí đã được hướng về đối tượng. Cũng vậy, nó được gọi là hướng sự chú ý về, bởi vì những sát-na tâm năng động sanh lên bắt đầu với sát-na tâm đó. Những sát-na hữu phần (Bhavaṅga) là những sát-na không năng động. Sau khi dòng hữu phần (Bhavaṅga) dừng lại, thì sát-na tâm hướng về cảnh sanh lên. Sự thay đổi trong dòng tâm thức được xảy ra với tâm này. Tức là tâm thức chuyển thành năng động. Chức năng hướng tâm này được thực hiện bằng hai tâm. Chúng ta sẽ tìm hiểu về chúng sau. Trong Pāḷi, chức năng này được gọi là Āvajjana, tức là chú ý hay hướng tâm về. Các bạn có từ đó trong Pañcadvārāvajjana và Manodvārāvajjana. Đó là một chức năng, chức năng hướng tâm (Āvajjana).
Sau khi tâm trí được hướng về đối tượng, chúng ta có sự thấy hay sự nghe hay sự ngửi hay sự nếm hay sự đụng. Những tâm này có chức năng tương ứng của chúng. Cho nên, nhãn thức có chức năng thấy. Nhĩ thức có chức năng nghe. Tỷ thức có chức năng ngửi. Thiệt thức có chức năng nếm. Thân thức có chức năng đụng chạm. Như vậy, chúng ta có thêm năm chức năng: thấy, nghe, ngửi, nếm và đụng.
Cái gì sanh lên sau sự thấy trong lộ trình tâm? Nếu các bạn có biểu đồ của lộ trình tâm, thì các bạn có thể nhìn vào đó. Các bạn có nhớ ví dụ về trái xoài không? Sau khi thấy trái xoài, người đàn ông nhặt nó lên – tiếp nhận. Sau tiếp nhận, thì có quan sát. Và rồi có đoán định. Sau sự thấy, thì có tiếp nhận. Đó là một chức năng; tức là, tiếp nhận đối tượng là một chức năng. Và rồi quan sát đối tượng là một chức năng khác. Đoán định đối tượng là một chức năng khác nữa. Cái gì đi theo sau đoán định? Javana (đổng lực) đi theo sau đoán định.
Ở đây, Ngài Bhikkhu Bodhi đã nói như sau, “Javana là một thuật ngữ của Thắng Pháp (Abhidhamma) mà tốt nhất là để nguyên đừng chuyển ngữ.” (CMA, III, Guide to §8, p.124)
Cho nên, đừng cố gắng chuyển ngữ thuật ngữ Javana. Các bạn sẽ không có được sự chuyển nghĩa thỏa mãn đâu. Nó được dịch là đổng lực. Nhưng chúng ta không biết đổng lực là gì. Cho nên, tốt nhất là để vậy đừng chuyển ngữ. Nghĩa đen của từ “Javana” là chạy nhanh vụt qua với sức lực hay sự tác động. Sau giai đoạn đoán định là giai đoạn đổng lực (Javana). Ở giai đoạn này, tâm thức trải nghiệm đối tượng một cách đầy đủ. Cho nên, tôi gọi nó là sự trải nghiệm cảnh một cách đầy đủ. Tôi không muốn nói là “tận hưởng” cảnh bởi vì nếu đối tượng là không thỏa mãn thì các bạn chẳng tận hưởng nó đâu. Sự trải nghiệm đối tượng một cách đầy đủ chỉ có thể xảy ra ở giai đoạn đổng lực (Javana). Trước giai đoạn đổng lực (Javana), có những chức năng hướng tâm, tiếp nhận, quan sát và đoán định. Những chức năng này được thực hiện bằng những tâm vô nhân (Ahetuka Citta). Chúng rất yếu. Chúng không phải là những tâm (Citta) mạnh. Sự trải nghiệm cảnh của chúng không mạnh bằng giai đoạn của đổng lực (Javana).
Chỉ ở giai đoạn đổng lực (Javana) mới có thiện (Kusala) và bất thiện (Akusala). Các bạn thấy một đối tượng. Ở những giai đoạn hướng tâm, thấy, tiếp nhận, quan sát và đoán định, những tâm này là những tâm quả (Vipāka Citta), trừ hướng ngũ môn (Pañcadvārāvajjana) và đoán định (Voṭṭhabbana) là những tâm duy tác (Kiriya Citta). Chỉ tại những sát-na đổng lực (Javana)1 thì đối tượng mới được trải nghiệm trọn ven. Đó là lý do tại sao thiện (Kusala) hay bất thiện (Akusala) sanh lên tại những sát-na đổng lực (Javana). Nếu các bạn có một thái độ đúng đắn về sự vật, thì những sát-na đổng lực (Javana) sẽ là thiện (Kusala). Nếu các bạn có một thái độ sai trái về sự vật, thì đổng lực (Javana) sẽ là bất thiện (Akusala). Đổng lực (Javana) là một chức năng, tức là trải nghiệm cảnh một cách đầy đủ. Chức năng này được thực hiện bằng một số tâm (Citta). Chúng ta sẽ tìm hiểu về chúng sau.
Theo sau sự trải nghiệm cảnh một cách đầy đủ là hai sát-na của sự việc được gọi là sự ghi nhận hay sự đăng ký. Từ Pāḷi là Tadārammaṇa. Hai sát-na Tadārammaṇa (na cảnh) có thể đi theo sau những đổng lực (Javana). Nghĩa đen của Tadārammaṇa là có đối tượng đó. “Tad” có nghĩa là đó. “Ārammaṇa” có nghĩa là đối tượng. “Tad” và “Ārammaṇa” kết hợp với nhau và nó có nghĩa là một cái gì đó mà có đối tượng đó. “Đối tượng đó” có nghĩa là đối tượng được bắt bởi đổng lực (Javana). Hai sát-na na cảnh (Tadārammaṇa) bắt cùng đối tượng với những đổng lực (Javana). Tadārammaṇa, tức là chức năng ghi nhận hay chức năng đăng ký, được so sánh như nước ở phía sau chiếc thuyền. Các bạn chèo thuyền và nước đi theo chiếc thuyền ở phía sau. Nó là cái gì đó giống như vậy. Nó cũng được gọi là hương vị dư sót (na cảnh). Các bạn có còn nhớ ví dụ trái xoài không? Người đàn ông nuốt trái xoài và nước miếng và vân vân. Đó là na cảnh (Tadārammaṇa), tức là một chức năng khác nữa.
Các bạn có bao nhiêu chức năng tất cả? Chúng ta có tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga), tử, và rồi hướng tâm, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, tiếp nhận, quan sát, đoán định, đổng lực (Javana), đăng ký (Tadārammaṇa). Cho nên, chúng ta có mười bốn chức năng. Mười bốn chức năng này được thực hiện bởi 89 hay 121 tâm.
Có một sự khác biệt giữa những chức năng và cái được gọi là những giai đoạn. “Những giai đoạn” thật ra có nghĩa là địa điểm của chức năng, tức là nơi những chức năng này sanh lên. Mặc dầu có mười bốn chức năng, nhưng những địa điểm mà những chức năng này được thực hiện thì chỉ có mười. Sau hướng tâm là thấy. Khi có thấy, thì không thể có nghe và vân vân. Thấy được theo sau lập tức bởi tiếp nhận. Giữa hướng tâm và tiếp nhận là những chức năng thấy, nghe, ngửi, nếm và đụng. Cho nên, đối với năm chức năng này, chỉ có một địa điểm, tức là một giai đoạn. Nếu chúng ta chia những chức năng theo địa điểm sanh lên, chúng ta chỉ có mười. Có mười giai đoạn của chức năng hay mười địa điểm của chức năng. Thuật ngữ Pāḷi là Ṭhāna, có nghĩa là một địa điểm. Trong CMA, nó được dịch là giai đoạn (CMA, III, Guide to §8, p.124). Nói tóm lại, có mười giai đoạn hay mười địa điểm, nhưng có tới mười bốn chức năng.
Bây giờ chúng ta sẽ tìm xem chức năng nào được thực hiện bằng tâm nào. Trong CMA có một bảng nêu ở trang 127 (xem CMA, III, Table 3.3, p.127). Những bảng nêu này thật ra là của tôi nhưng ở đây, chúng không phải bằng tiếng Pāḷi. Tôi muốn các bạn học những thuật ngữ này bằng tiếng Pāḷi cũng như tiếng bản xứ. Mười bốn chức năng được liệt kê từ trên xuống dưới. Chúng ta có tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử, rồi thì hướng tâm, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, tiếp nhận, quan sát, đoán định, đổng lực (Javana), và đăng ký. Đây là mười bốn chức năng. Rồi thì có những tâm (Citta) – những tâm (Citta) bất thiện, nhãn thức và vân vân.
Những chức năng tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử được thực hiện bởi những tâm quan sát thọ xả1, những tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka) – tức là những tâm quả dục giới hữu nhân (Kāmāvacara Sahetuka Vipāka) – có bao nhiêu tất cả? Có tám. Và rồi chín tâm quả Đáo đại (Mahaggata Vipāka) cũng thực hiện những chức năng tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử (Cuti). Cho nên, tám cộng chín cộng hai, tức là có mười chín tâm (Citta) thực hiện chức năng tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử. Nếu tâm tục sinh của các bạn là tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka) thứ nhất, thì những tâm hộ kiếp (Bhavaṅga) của các bạn sẽ luôn luôn là tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka) thứ nhất. Tâm tử của các bạn cũng sẽ là tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka) thứ nhất. Mười chín tâm (Citta) này có ba chức năng này. Khi một tâm nào đó trong mười chín tâm (Citta) này sanh lên làm chức năng tục sinh, nó cũng sẽ thực hiện luôn chức năng hộ kiếp (Bhavaṅga) và chức năng tử. Như vậy, có mười chín tâm có chức năng tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử. Tôi muốn các bạn nhìn vào biểu đồ này. Tâm nào có chức năng tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử? Hai tâm quan sát thọ xả (Upekkhā Santīraṇa), tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka), năm tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka) và bốn tâm quả vô sắc (Arūpāvacara Vipāka) có chức năng tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử. Các bạn cần phải hiểu chuỗi những tâm (Citta) sinh lên trong lộ trình tâm và cũng nên biết những tâm (Citta) nào có thể sanh lên tại mỗi thời điểm trong tiến trình tâm thức. Các bạn phải thấy được điều này để hiểu được rõ ràng. Do đó, một lần nữa, có hai tâm quan sát (Santīraṇa) thọ xả (Upekkhā), tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka), năm tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka) và bốn tâm quả vô sắc (Arūpāvacara Vipāka). Bốn cộng năm cộng tám cộng hai là mười chín. Như vậy, có tất cả mười chín tâm làm chức năng tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử (Cuti).
Giai đoạn tiếp theo hay nơi tiếp theo trong tiến trình tâm thức là sự hướng tâm. Tâm hướng ngũ môn hay tâm hướng ý môn sanh lên ở đây. Trong Pāḷi, chúng được gọi là Pañcadvārāvajjana và Manodvārāvajjana. Hai tâm (Citta) này thuộc vào nhóm thứ ba của những tâm vô nhân (Ahetuka Citta), tức là ba tâm duy tác vô nhân (Kiriya Ahetuka Citta). Tâm hướng ngũ môn (Pañcadvārāvajjana) và tâm hướng ý môn (Manodvārāvajjana) làm chức năng hướng tâm (Āvajjana) này.
Những tâm (Citta) nào làm chức năng thấy? Hai nhãn thức (trong số những tâm vô nhân (Ahetuka Citta)) làm chức năng thấy. Những tâm (Citta) nào làm chức năng nghe? Hai nhĩ thức làm chức năng nghe. Còn ngửi thì sao? Hai tỷ thức làm chức năng ngửi. Còn nếm thì sao? Hai thiệt thức làm chức năng nếm. Còn đụng chạm thì sao? Hai thân thức làm chức năng đụng chạm.
Sau khi một trong những tâm ngũ song thức (Dvipañcaviññāṇa Citta) sanh lên, tâm tiếp thâu (Sampaṭicchana) liền đi theo. Có hai tâm (Citta) có thể tiếp nhận đối tượng, một là tâm quả của nghiệp (Kamma) thiện và một là tâm quả của nghiệp (Kamma) bất thiện.
Rồi tâm gì sanh lên sau đó? Tâm quan sát sanh lên tiếp theo. Có bao nhiêu tâm quan sát? Có ba tâm quan sát (Santīraṇa Citta) làm chức năng quan sát, một tâm được kết hợp với thọ hỷ và hai tâm với thọ xả.
Tâm đoán định đi theo sau tâm quan sát trong lộ trình tâm. Chức năng đoán định được thực hiện bởi tâm hướng ý môn.
Và rồi tiếp theo là những đổng lực (Javana). Có tất cả là 55 tâm. Chức năng đổng lực (Javana) được thực hiện bởi những tâm thiện (Kusala), bất thiện (Akusala), Đạo (Magga), Quả (Phala) và duy tác (Kiriya) (tất cả duy tác (Kiriya), trừ hai tâm hướng tâm (Āvajjana)). Một lần nữa, những tâm nào làm chức năng đổng lực (Javana)? Những tâm thiện (Kusala), bất thiện (Akusala), Đạo (Magga), Quả (Phala) và duy tác (Kiriya), trừ hai tâm duy tác thọ xả vô nhân (Ahetuka Upekkhā Kiriya) – tức là hướng ý môn (Manodvārāvajjana) và hướng ngũ môn (Pañcadvārāvajjana). Nói rõ ra là mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta), một tâm tiếu sinh (Hasituppāda Citta), tám tâm thiện dục giới (Kāmāvacara Kusala), tám tâm duy tác dục giới hữu nhân (Sahetuka Kāmāvacara Kiriya), năm tâm thiện sắc giới (Rūpāvacara Kusala), năm tâm duy tác sắc giới (Rūpāvacara Kiriya), bốn tâm thiện vô sắc (Arūpāvacara Kusala), bốn tâm duy tác vô sắc (Arūpāvacara Kiriya), bốn tâm Đạo (Magga Citta) (chúng là thiện (Kusala)) và bốn tâm Quả (Phala Citta). (Cho nên, tất cả tám tâm Siêu thế (Lokuttara Citta)). Các bạn hãy theo dõi tôi. Đừng cộng chúng lại. Các bạn đã cộng chúng rồi hả? Có bao nhiêu tâm? Có 55 tâm. Các bạn có thể cứ nói 55. Nhưng các bạn phải biết 55 tâm là những tâm nào. Các bạn phải biết rằng những đổng lực (Javana) là thiện (Kusala), bất thiện (Akusala), Đạo (Magga), Quả (Phala) và duy tác (Kiriya) trừ hai tâm hướng ý môn (Manodvārāvajjana) và hướng ngũ môn (Pañcadvārāvajjana). Nếu các bạn nhớ được như vậy, thì các bạn có thể đếm những đổng lực (Javana). Như vậy có mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta), một tâm tiếu sinh (Hasituppāda Citta), tám tâm thiện dục giới (Kāmāvacara Kusala Citta), tám tâm duy tác dục giới hữu nhân (Sahetuka Kāmāvacara Kiriya Citta), năm tâm thiện sắc giới (Rūpāvacara Kusala Citta), năm tâm duy tác sắc giới (Rūpāvacara Kiriya Citta), bốn tâm thiện vô sắc (Arūpāvacara Kusala Citta), bốn tâm duy tác vô sắc (Arūpāvacara Kiriya Citta), bốn tâm Đạo (Magga Citta) và bốn tâm Quả (Phala Citta). Cho nên, tất cả có 55 tâm. 55 tâm này làm chức năng đổng lực (Javana).
Bây giờ, chúng ta đi đến chức năng đăng ký, ghi nhận hay na cảnh (xem CMA, III, Table 3.3, p.127). Những tâm hoạt động với chức năng đăng ký là quan sát thọ xả (Santīraṇa Upekkhā), quan sát thọ hỷ (Santīraṇa Somanassa) và rồi tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka). Có hai tâm quan sát thọ xả (Santīraṇa Upekkhā), một tâm quan sát thọ hỷ (Santīraṇa Somanassa) và rồi tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka). Cho nên, có tất cả là mười một tâm làm chức năng đăng ký, ghi nhận hay na cảnh (Tadārammaṇa).
Bây giờ, chúng ta muốn hiểu biết điều này từ một góc cạnh khác. Chúng ta muốn biết những tâm (Citta) nào có một chức năng, những tâm (Citta) nào có hai chức năng và vân vân. Các bạn có thể tham khảo số chức năng của từng tâm (Citta) một trong cuốn CMA này (xem CMA, III, Table 3.3, p.127). Ở đó, các bạn thấy một, một, năm, hai và vân vân. Nếu chúng ta muốn tìm xem bao nhiêu tâm (Citta) có một chức năng, thì chúng ta phải cộng những con số ở hàng cuối cùng bên dưới những con số một – mười hai cộng hai cộng hai và vân vân. Vậy có bao nhiêu? Có khá nhiều. Có 68 tâm có một chức năng. Đúng vậy. Chúng ta có thể biết điều này như được ghi nhận trong cuốn Cẩm Nang.
“Nó được ghi nhận rằng tổng số tâm thực hiện một chức năng là 68; …” (CMA, III, §11, p.129)
Điều này được ghi ở trên trang 129. Cho nên, các bạn đừng tìm ở đâu xa. Có hai tâm có hai chức năng. Hãy kiểm tra lại với cuốn sách. Rồi thì có chín tâm có ba chức năng. Có tám tâm có bốn chức năng. Có hai tâm có năm chức năng. Tất cả là vậy. Tốt. Như vậy, có 68 tâm (Citta) có một chức năng. Có hai tâm (Citta) có hai chức năng. Có chín tâm (Citta) có ba chức năng. Có tám tâm (Citta) có bốn chức năng. Có hai tâm (Citta) có năm chức năng.
Chúng ta hãy xem xét những tâm (Citta) có năm chức năng. Những tâm (Citta) có năm chức năng là những tâm nào? Chúng là hai tâm quan sát thọ xả (Upekkhā Santīraṇa Citta). Năm chức năng đó là gì? Đó là tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga), tử (Cuti), quan sát và đăng ký (hay na cảnh). Tâm quan sát (Santīraṇa) được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā) thì có năm chức năng này. Nó không thực hiện năm chức năng này trong cùng một lúc. Nó thực hiện những chức năng khác nhau tại những thời điểm khác nhau. Tại thời điểm tục sinh, thì nó làm chức năng tục sinh và vân vân. Trong lộ trình tâm thức, nó làm chức năng quan sát và na cảnh nữa.
Bây giờ, những tâm (Citta) có bốn chức năng là tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka Citta). Bốn chức năng đó là gì? Chúng là tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga), tử (Cuti) và đăng ký (hay na cảnh).
Những tâm (Citta) có ba chức năng là chín tâm quả Đáo Đại. Tức là năm tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka Citta) và bốn tâm quả vô sắc (Arūpāvacara Vipāka Citta). Chúng có ba chức năng: tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử (Cuti).
Tâm (Citta) có hai chức năng là tâm quan sát (Santīraṇa) được đi kèm theo bởi thọ hỷ (Somanassa). Nó có chức năng quan sát và đăng ký (hay na cảnh). Rồi có một tâm nữa cũng có hai chức năng: tâm hướng ý môn. Hai chức năng đó là gì? Đó là hướng tâm và đoán định. Khi tâm hướng ý môn (Manodvārāvajjana) sanh lên tại năm giác quan, nó có chức năng đoán định. Khi nó sanh lên tại ý môn, nó có chức năng hướng tâm.
Tiếp theo là những tâm (Citta) có một chức năng. Những tâm bất thiện (Akusala Citta) có chức năng gì? Nó có chức năng đổng lực (Javana). Nhãn thức có chức năng gì? Nó có chức năng thấy. Nhĩ thức có chức năng gì? Nó có chức năng nghe. Tỷ thức có chức năng gì? Nó có chức năng ngửi. Thiệt thức có chức năng gì? Nó có chức năng nếm. Thân thức có chức năng gì? Nó có chức năng đụng chạm. Tâm tiếp thâu có chức năng gì? Nó có chức năng tiếp nhận. Tâm hướng ngũ môn có chức năng gì? Nó có chức năng hướng tâm. Và rồi tâm tiếu sinh (Hasituppāda) có chức năng gì? Nó có chức năng đổng lực (Javana). Và rồi tâm thiện dục giới (Kāmāvacara Kusala) có chức năng gì? Nó có chức năng đổng lực (Javana). Rồi những tâm duy tác dục giới hữu nhân (Sahetuka Kāmāvacara Kiriya Citta) có chức năng gì? Chúng có chức năng đổng lực (Javana). Và rồi cái này là cái gì? Những tâm thiện Đáo đại, tức là thiện sắc giới và thiện vô sắc giới (Rūpāvacara và Arūpāvacara Kusala Citta) có chức năng gì? Chúng có chức năng đổng lực (Javana). Những tâm duy tác Đáo đại, tức là duy tác sắc giới và duy tác vô sắc giới (Rūpāvacara và Arūpāvacara Kiriya) có chức năng gì? Chúng có chức năng đổng lực (Javana). Tám tâm Siêu thế (Lokuttara Citta) có chức năng gì? Chúng có chức năng đổng lực (Javana). Bây giờ chúng ta đã biết những chức năng khác nhau được thực hiện bởi những tâm khác nhau. Chúng có những chức năng riêng của chúng để thực hiện. Điều này giống như những nhân viên trong văn phòng vậy. Những người khác nhau làm những chức năng khác nhau. Người thì đánh máy. Người thì giữ sổ sách và vân vân. Cũng theo cách đó, 89 hay 121 tâm này thực hiện những chức năng khác nhau. Chúng có chức năng riêng của chúng.
Có bao nhiêu tâm làm chức năng tục sinh, hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử (Cuti)? Có mười chín. Chúng là những tâm gì? Chúng là những tâm quan sát thọ xả (Santīraṇa Upekkhā), tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka), tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka) và tâm quả vô sắc giới (Arūpāvacara Vipāka). Mười chín tâm này thực hiện chức năng tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử (Cuti).
Và rồi chức năng hướng tâm được thực hiện bởi bao nhiêu tâm (Citta)? Hai tâm thực hiện chức năng hướng tâm, đó là tâm hướng ngũ môn và tâm hướng ý môn.
Chức năng thấy được thực hiện bởi hai tâm. Nghe, ngửi, nếm, đụng cũng được thực hiện bởi hai tâm mỗi chức năng. Chức năng tiếp nhận cũng được thực hiện bởi hai tâm (Citta). Chức năng quan sát được thực hiện bởi ba tâm. Chức năng đoán định được thực hiện bởi một tâm, đó là tâm hướng ý môn (Manodvārāvajjana). Chức năng đổng lực (Javana) được thực hiện bởi 55 Citta. Chức năng đăng ký (hay na cảnh) được thực hiện bởi mười một tâm.
Tôi muốn các bạn có thể nói ra những chức năng này. Một lần nữa, những tâm bất thiện (Akusala Citta) có chức năng đổng lực (Javana). Rồi thì những tâm nhãn thức (Cakkhu-viññāṇa Citta) có chức năng thấy. Nhĩ thức (Sota-viññāṇa) có chức năng nghe. Tỷ thức (Ghāna- viññāṇa) có chức năng ngửi. Thiệt thức (Jivhā-viññāṇa) có chức năng nếm. Thân thức (Kāya-viññāṇa) có chức năng đụng chạm. Những tâm tiếp thâu (Sampaṭicchana Citta) có chức năng tiếp nhận. Tâm quan sát thọ hỷ (Somanassa Santīraṇa) có hai chức năng: quan sát và đăng ký (hay ghi nhận hay na cảnh). Hai tâm quan sát thọ xả (Upekkhā Santīraṇa) có năm chức năng. Năm chức năng đó là gì? Chúng là tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga), tử (Cuti), quan sát (Santīraṇa) và na cảnh (Tadārammaṇa). Tâm hướng ngũ môn (Pañcadvārāvajjana) có chức năng hướng tâm. Tâm hướng ý môn (Manodvārāvajjana) có chức năng hướng tâm (Āvajjana) và đoán định (Voṭṭhabbana). Tâm tiếu sinh (Hasituppāda) có chức năng đổng lực (Javana). Rất tốt. Tám tâm thiện dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kusala Citta) có chức năng đổng lực (Javana). Những tâm quả dục giới hữu nhân (Sahetuka Kāmāvacara Vipāka) có bốn chức năng: tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga), tử (Cuti) và đăng ký. Rồi thì những tâm duy tác dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kiriya Citta) có chức năng đổng lực (Javana). Những tâm thiện sắc giới (Rūpāvacara Kusala Citta) có một chức năng, đó là đổng lực (Javana). Những tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka Citta) có ba chức năng. Chúng là gì?
Học viên: Tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử (Cuti).
Sayādaw: Rất tốt. Và rồi những tâm duy tác sắc giới (Rūpāvacara Kiriya Citta) có chức năng đổng lực (Javana). Rồi những tâm thiện vô sắc (Arūpāvacara Kusala Citta) có chức năng gì? Chúng có chức năng đổng lực (Javana). Và rồi những tâm quả vô sắc (Arūpāvacara Vipāka Citta) có ba chức năng. Vì chúng là quả (Vipāka), cho nên chúng có chức năng tục sinh (Paṭisandhi), hộ kiếp (Bhavaṅga) và tử (Cuti). Những tâm duy tác vô sắc (Arūpāvacara Kiriya Citta) có chức năng đổng lực (Javana). Tất cả những tâm Siêu thế (Lokuttara Citta) có chức năng đổng lực (Javana).
Chúng ta đã kết thúc phần thứ ba, tức là “Phân tích theo Chức Năng”. Hôm nay chúng ta sẽ chỉ học ba phần này. Chủ đề tiếp theo là môn, và rồi đến đối tượng và vật. Phần về đối tượng thì hơi phức tạp.
Sādhu! Sādhu! Sādhu!