Nội Dung Chính
Cẩm Nang Nghiên Cứu Thắng Pháp Tập I
Chương Ba: Cảnh (Ārammaṇa) (Tiếp Theo) & Vật (Vatthu)
Chúng ta hãy ôn lại những đối tượng. Các bạn có thể nhìn vào bảng nêu (xem CMA, III, Table 3.5, p.141). Tôi muốn sử dụng luôn cả Pāḷi cùng với ngôn ngữ bản xứ.
Trong Pāḷi, đối tượng được gọi là Ārammaṇa. Những tâm (Citta) và những tâm sở (Cetasika) bắt đối tượng thì được gọi là Ārammaṇika. Cho nên, Ārammaṇika là chủ thể và Ārammaṇa là đối tượng.
Loại thứ nhất chúng ta thấy là Cakkhu-viññāṇa. Cakkhu-viññāṇa là gì? Cakkhu-viññāṇa là nhãn thức. Có hai tâm. Chúng lấy cảnh sắc hiện tại làm đối tượng.
Rồi Sota-viññāṇa là nhĩ thức. Hai nhĩ thức lấy cảnh thinh hiện tại làm đối tượng.
Có hai tỷ thức (Ghāna-viññāṇa). Chúng lấy cảnh khí (hương) hiện tại làm đối tượng.
Có hai thiệt thức (Jivhā-viññāṇa). Chúng lấy cảnh vị hiện tại làm đối tượng.
Có hai thân thức thọ khổ và thọ lạc (Dukkha Kāya- viññāṇa và Sukha Kāya-viññāṇa). Hai thân thức này lấy cảnh xúc hiện tại làm đối tượng.
Rồi chúng ta đến ý giới (Mano-dhātu). Tôi hy vọng các bạn nhớ ý giới (Mano-dhātu) là gì. Ý giới (Mano- dhātu) là tâm hướng ngũ môn và hai tâm tiếp thâu. Ba tâm này gọi chung là ý giới (Mano-dhātu). Chúng bắt năm cảnh hiện tại. “Bắt năm cảnh” có nghĩa là đôi lúc chúng bắt cảnh sắc hiện tại, đôi lúc chúng bắt cảnh thinh hiện tại và vân vân. Nếu các bạn nhớ lộ trình tâm, thì chỉ có nhãn thức (Cakkhu-viññāṇa) là được đưa ra làm ví dụ thôi (xem CMA, IV, Table 4.1, p.155). Cho nên, các bạn phải thay nhĩ thức (Sota-viññāṇa), hay tỷ thức (Ghāna- viññāṇa), hay thiệt thức (Jivhā-viññāṇa), hay thân thức (Kāya-viññāṇa) vào vị trí của nhãn thức (Cakkhu- viññāṇa). Nhưng ba tâm ý giới (Mano-dhātu) này (tâm hướng ngũ môn và hai tâm tiếp thâu) thì có trong mỗi lộ tâm ngũ môn. Tâm hướng ngũ môn (Pañcadvārāvajjana) và tâm tiếp thâu (Sampaṭicchana) bắt năm đối tượng hiện tại. Nhưng nhãn thức (Cakkhu-viññāṇa) chỉ bắt cảnh sắc hiện tại và vân vân.
Tiếp theo, chúng ta có ba tâm quan sát (Santīraṇa), một tâm tiếu sinh (Hasituppāda) và tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka). Có ba tâm quan sát (Santīraṇa Citta): một tâm được đi kèm theo bởi thọ hỷ (Somanassa) và hai tâm được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā). Và rồi chúng ta có tâm tiếu sinh (Hasituppāda). Chúng ta có thể thấy những tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka) trên bảng đồ (xem CMA, III, Table 3.5, p.141). Mười hai tâm này lấy 54 tâm dục giới (Kāmāvacara Citta), 52 tâm sở (Cetasika) và 28 sắc pháp (Rūpa) làm cảnh.
Nhóm tiếp theo có mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta), bốn tâm thiện dục giới tịnh hảo ly trí (Kāmāvacara Sobhana Ñāṇa-vippayutta Kusala Citta) và bốn tâm duy tác dục giới tịnh hảo ly trí (Kāmāvacara Sobhana Ñāṇa-vippayutta Kiriya Citta). Ñāṇa-vippayutta là ly trí. Như vậy, tám tâm ly trí cộng với mười hai tâm bất thiện (Akusala), chúng ta có 20. 20 tâm (Citta) này bắt 81 tâm hiệp thế (Lokiya Citta), 52 tâm sở (Cetasika),
28 sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti) làm cảnh. Cho nên, chúng lấy đối tượng hiệp thế làm cảnh. Những đối tượng hiệp thế có nghĩa là những tâm (Citta) hiệp thế, những tâm sở (Cetasika), những sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti). Mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta), bốn tâm thiện dục giới tịnh hảo ly trí (Kāmāvacara Sobhana Kusala Ñāṇa-vippayutta Citta) và bốn tâm duy tác dục giới tịnh hảo ly trí (Kāmāvacara Sobhana Kiriya Ñāṇa-vippayutta Citta) không thể bắt những tâm (Citta) Siêu thế cùng với những tâm sở (Cetasika) kết hợp với chúng và Níp-bàn (Nibbāna) làm cảnh. Chúng không thể bắt những đối tượng như vậy đơn giản vì chúng không có trí tuệ (Ñāṇa). Trong Sớ Giải nói rằng, chúng không thể bắt những đối tượng như vậy vì chúng ngu dốt. Từ “ngu dốt” được dùng để miêu tả chúng. Bởi vì chúng không được đi kèm theo bởi trí tuệ hay sự hiểu biết, cho nên chúng không thể bắt những đối tượng Siêu thế (Lokuttara) làm cảnh. Như vậy, chúng chỉ bắt những đối tượng hiệp thế (Lokiya) làm cảnh.
Nhóm tiếp theo có bốn tâm thiện dục giới tịnh hảo hợp trí (Kāmāvacara Sobhana Ñāṇa-sampayutta Kusala) và một tâm thông thiện (Kusala Abhiññā). Tâm thông (Abhiññā) là thiền (Jhāna) thứ năm, một loại thiền (Jhāna) thứ năm được phát triển một cách đặc biệt. Khi chúng ta nói tâm thông (Abhiññā), ý chúng ta là thiền (Jhāna) thứ năm. Năm tâm (Citta) này bắt 87 tâm (Citta). Tức là tất cả những tâm (Citta) trừ đi A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la-hán Quả (Arahatta- phala). Chúng bị loại ra vì A-la-hán Đạo (Arahatta- magga) và A-la-hán Quả (Arahatta-phala) chỉ thuộc vào những vị A-la-hán (Arahant). Những tâm thiện dục giới tịnh hảo hợp trí (Kāmāvacara Sobhana Ñāṇa-sampayutta Kusala Citta) và thông thiện (Kusala Abhiññā) chỉ thuộc vào những chúng sanh không phải là A-la-hán (Arahant). Những tâm (Citta) này không thể bắt A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la-hán Quả (Arahatta-phala) làm cảnh đơn giản vì những chúng sanh có những tâm này chưa chứng đạt A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la- hán Quả (Arahatta-phala). Chúng bắt tất cả những đối tượng ngoại trừ A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la- hán Quả (Arahatta-phala) – tức là 87 tâm (Citta), 52 tâm sở (Cetasika), 28 sắc pháp (Rūpa), Níp-bàn (Nibbāna) và những khái niệm (Paññatti).
Nhóm tiếp theo gồm có bốn tâm duy tác dục giới tịnh hảo hợp trí (Kāmāvacara Sobhana Ñāṇa-sampayutta Kiriya)1, một tâm thông duy tác (Kiriya Abhiññā) và một tâm đoán định (Voṭṭhabbana). Tâm đoán định (Voṭṭhabbana) là tâm (Citta) nào? Tâm hướng ý môn (Manodvārāvajjana) là tâm đoán định (Voṭṭhabbana). Sáu tâm này bắt tất cả những đối tượng làm cảnh – tức là 89 tâm (Citta), 52 tâm sở (Cetasika), 28 sắc pháp (Rūpa), Níp-bàn (Nibbāna) và những khái niệm (Paññatti). Mặc dầu chúng ta nói rằng những tâm (Citta) này bắt tất cả những đối tượng làm cảnh, nhưng nó chỉ thật là như vậy khi chúng sanh lên trong tâm trí của một vị Phật. Nếu không thì chúng không thể bắt tất cả mọi cảnh. Tâm đoán định (Voṭṭhabbana) ở đây không phải là tâm đoán định (Voṭṭhabbana) thông thường. Nó là tâm đoán định (Voṭṭhabbana) có liên hệ với trí tuệ toàn giác của Đức Phật. Có nghĩa là tâm đoán định (Voṭṭhabbana) sanh lên trong lộ trình tâm thức toàn giác trong tâm ý của Đức Phật. Tâm đoán định (Voṭṭhabbana) thông thường không thể bắt tất cả mọi cảnh.
Rồi thì những tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ hai và thứ tư, gồm có ba tâm thứ hai và ba tâm thứ tư, bắt những đối tượng Đáo đại (Mahaggata). Những đối tượng Đáo đại (Mahaggata) ở đây có nghĩa là tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ nhất và thứ ba. Những đối tượng Đáo đại (Mahaggata) là gì? Những đối tượng Đáo đại (Mahaggata) có nghĩa là 27 tâm Đáo đại (Mahaggata Citta), tức là mười lăm tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta) và mười hai tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta), và những tâm sở (Cetasika) đi cùng với chúng. Có bao nhiêu tâm sở (Cetasika)? Có 35 tâm sở (Cetasika). Như vậy, mười lăm tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta), mười hai tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) và 35 tâm sở (Cetasika) được gọi là những đối tượng Đáo đại (Mahaggata). Ở đây, vì chúng ta chỉ nói đến tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ hai và thứ tư, cho nên đối tượng Đáo đại (Mahaggata) ở đây chỉ có nghĩa là tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ nhất và thứ ba.
Nhóm tiếp theo là những tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta) (có mười lăm tâm) và những tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ nhất và thứ ba. Tất cả là 21 tâm. Chúng bắt những khái niệm (Paññatti) làm cảnh. Các bạn có thể nhìn vào bảng nêu (xem CMA, III, Table 3.5, p.141). Tôi nghĩ chúng ta đã đề cập đến bảng nêu này vào tuần trước. Như vậy, chúng bắt những khái niệm (Paññatti) làm cảnh. Những tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta) – tức là thiền (Jhāna) thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm – bắt khái niệm (Paññatti) Kasiṇa, những khái niệm (Paññatti) về sự bất mỹ của thân xác và vân vân. Tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ nhất bắt cảnh gì? Nó bắt không gian vô tận làm cảnh. Và tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ ba bắt sự trống vắng của tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ nhất làm cảnh. Vì chúng không phải là sự thật chân đế, cho nên chúng được gọi là chế định (Paññatti). 21 tâm (Citta) này bắt những khái niệm (Paññatti) làm cảnh; những khái niệm (Paññatti) khác nhau được bắt bởi những tâm thiền (Jhāna) khác nhau.
Có tám hay 40 tâm Siêu thế (Lokuttara Citta).
Chúng bắt Níp-bàn (Nibbāna) làm cảnh.
Chúng ta hãy nói đến tâm quan sát (Santīraṇa), tâm tiếu sinh (Hasituppāda) và tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka). Chúng chỉ bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara). Những tâm quan sát (Santīraṇa Citta) sanh lên trong những lộ nhãn thức, nhĩ thức và vân vân. Cho nên, chúng chỉ bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara) làm cảnh. Và Hasituppāda có nghĩa là tâm tiếu sinh. Khi một vị A-la-hán (Arahant) thấy hay nghe một cái gì đó, đối tượng đó có thể làm cho tâm tiếu sinh sanh lên trong tâm ý của Ngài. Cho nên, tâm tiếu sinh (Hasituppāda) được nói là lấy những đối tượng dục giới (Kāmāvacara) làm cảnh. Rồi những tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka Citta) khi hoạt động với chức năng na cảnh (Tadārammaṇa) sẽ bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara) làm cảnh.
Rồi thì những tâm bất thiện (Akusala Citta) có thể bắt những tâm thiền (Jhāna Citta) làm cảnh bởi vì những tâm hiệp thế (Lokiya Citta) bao gồm cả những tâm thiền (Jhāna Citta). Điều hơi lạ là tâm bất thiện (Akusala) có thể bắt thiền (Jhāna) làm cảnh. Đôi lúc, một người có thể có tà kiến về những tầng thiền (Jhāna) – tức là cho rằng những tầng thiền (Jhāna) là thường hằng và vân vân. Hành giả cũng có thể dính mắc vào những tầng thiền (Jhāna) này. Những người chứng đạt những tầng thiền (Jhāna) có thể dính mắc vào chúng. Cho nên, những tâm bất thiện (Akusala Citta) có thể bắt những tâm thiền (Jhāna Citta) làm cảnh. Đôi lúc, một người mất thiền (Jhāna) của mình và hối tiếc về điều đó. Trong trường hợp đó, những tâm sân (Dosamūla Citta) lấy những tâm thiền (Jhāna Citta) làm cảnh. Mặc dầu chúng là những tâm bất thiện (Akusala Citta), nhưng chúng có thể bắt cả những cảnh dục giới (Kāmāvacara) và những tâm thiền (Jhāna Citta) làm cảnh.
Bốn tâm thiện dục giới tịnh hảo ly trí (Kāmāvacara Sobhana Kusala Ñāṇa-vippayutta) và bốn tâm duy tác dục giới tịnh hảo ly trí (Kāmāvacara Sobhana Kiriya Ñāṇa-vippayutta) có thể bắt tất cả những tâm hiệp thế (Lokiya Citta) – tức là những tâm dục giới (Kāmāvacara Citta) và những tâm Đáo đại (Mahaggata Citta). Chúng cũng có thể bắt tất cả 28 sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti) làm cảnh.
Đôi lúc, một người có thể làm một việc đáng tôn kính, nhưng ông ta lại thực hiện một cách không có sự chú ý nhiều. Trong trường hợp này, tâm của ông ta là ly trí (tức là không có trí tuệ (Ñāṇa)). Trong trường hợp này, tâm thiện dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kusala) hay tâm duy tác dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kiriya) có thể là ly trí và có thể bắt tất cả những tâm hiệp thế (Lokiya Citta) và những đối tượng khác làm cảnh. Theo các Sớ Giải, thậm chí một vị A-la-hán (Arahant) vẫn có thể làm một việc đáng kính mà không có chú ý hay lưu ý nhiều. Khi một người rất quen thuộc với những tầng thiền (Jhāna) và rồi suy nghiệm hay phản khán về chúng, thì tâm của người đó vẫn có thể là ly trí. Cho nên, mặc dầu chúng là ly trí, chúng vẫn có thể bắt những tầng thiền (Jhāna) làm cảnh.
Tâm thông (Abhiññā) là tâm thiền (Jhāna) thứ năm nhưng nó là thiền (Jhāna) thứ năm được phát triển một cách đặc biệt. Thiền (Jhāna) thứ năm thông thường thì không được gọi là tâm thông (Abhiññā). Để đạt được thần thông (Abhiññā), hành giả trước hết phải chứng đắc tất cả chín tầng thiền (Jhāna). Rồi hành giả đi ngược lại tầng thiền (Jhāna) thứ năm và tập luyện hay phát triển nó một cách đặc biệt để cho thiền (Jhāna) thứ năm của mình trở thành tâm thông (Abhiññā). Abhiññā được chuyển ngữ là kiến thức trực tiếp hay thần thông. Khi có thần thông (Abhiññā), hành giả có thể nhớ những kiếp sống quá khứ hay có thể biết được tâm trí của người khác và vân vân.
Ở đây, chúng ta có bốn tâm thiện dục giới tịnh hảo hợp trí (Kāmāvacara Sobhana Ñāṇa-sampayutta Kusala). Vì chúng là thiện (Kusala), cho nên chúng sanh lên trong những người nào? Chúng sanh lên trong những phàm nhân (Puthujjana) và những bậc Thánh (Ariya) thấp hơn (những Sekkha), tức là những bậc Thánh mà không phải A-la-hán (Arahant). Như vậy, tâm hợp trí (Ñāṇa- sampayutta) này có thể bắt Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti- magga), Nhập Lưu Quả (Sotāpatti-phala), Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī-magga), Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī-phala), Bất Lai Đạo (Anāgāmī-magga), Bất Lai Quả (Anāgāmī- phala) làm cảnh. Làm sao việc này có thể xảy ra? Tâm thiện hợp trí (Ñāṇa-sampayutta Kusala) của phàm nhân không thể bắt Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti-magga), Nhập Lưu Quả (Sotāpatti-phala) và vân vân làm cảnh, đơn giản vì người đó chưa đạt đến tầng giác ngộ đó. Nhưng sau khi đã trở thành một vị Nhập Lưu (Sotāpanna), tức là ngay sau lộ tâm Đạo (Magga), vị Thánh này sẽ xem xét lại năm điều. Các bạn có nhớ không? Một người giác ngộ xem xét lại những gì? Ngài có thể xem xét lại Đạo (Magga), Quả (Phala), Níp-bàn (Nibbāna), những phiền não đã được đoạn trừ và những phiền não vẫn còn tồn tại. Khi Ngài xem xét lại Đạo (Magga) và Quả (Phala) của chính mình, tâm xem xét lại của Ngài là một trong những tâm hợp trí (Ñāṇa-sampayutta Citta). Vì vậy, chúng ta lấy ví dụ như, tâm thiện tịnh hảo hợp trí (Ñāṇa-sampayutta Kusala Sobhana Citta) của vị Nhập Lưu (Sotāpanna) có thể bắt Đạo (Magga) và Quả (Phala) của mình làm cảnh trong khi xem xét lại. Chúng ta giả sử rằng Ngài có thần thông (Abhiññā). Thì với thần thông (Abhiññā), Ngài có thể bắt tâm Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti-magga) và Nhập Lưu Quả (Sotāpatti-phala) của những vị Thánh khác làm cảnh bởi vì các Ngài ở cùng một bậc. Nhưng một vị Nhập Lưu (Sotāpanna) không thể bắt Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī- magga) và Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī-phala) hay Bất Lai Đạo (Anāgāmī-magga) và Bất Lai Quả (Anāgāmī-phala) và vân vân làm cảnh, đơn giản vì Ngài chưa đạt đến những tầng giác ngộ đó. Tương tự, một vị Nhất Lai (Sakadāgāmī), tức là người đã đạt đến tầng giác ngộ thứ hai, xem xét lại Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī-magga) và Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī-phala) của mình. Trong khi xem xét, Ngài có thể bắt Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī- magga) và Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī-phala) của chính mình làm cảnh và thông qua thần thông (Abhiññā), thì Ngài cũng có thể bắt tâm Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti- magga), Nhập Lưu Quả (Sotāpatti-phala), Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī-magga) và Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī- phala) của những người khác.
Ngay trước tâm thông (Abhiññā) thật sự, thì có cái được gọi là tâm lộ sơ bộ. Trong tâm lộ sơ bộ này có những tâm hợp trí (Ñāṇa-sampayutta Citta). Các bạn đã biết rằng tâm thông (Abhiññā) thì không phải là tâm dục giới (Kāmāvacara Citta). Tâm thông (Abhiññā) là tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta). Trước lộ tâm thông (Abhiññā) này, có một lộ tâm sơ bộ. Trong suốt lộ tâm sơ bộ này, tâm trí của người này được hướng về đối tượng. Ví dụ, người này muốn nhìn thấy tâm (Citta) của một người khác. Cho nên, ngay trước lộ tâm thông (Abhiññā), những tâm (Citta) này được hướng về việc nhìn thấy tâm (Citta) của người khác. Nó bắt tâm (Citta) đó làm cảnh. Như vậy, tâm thiện hợp trí (Ñāṇa-sampayutta Kusala Citta) của một vị Nhất Lai (Sakadāgāmī) có thể bắt chính tâm Đạo (Magga Citta) và tâm Quả (Phala Citta) của mình khi xem xét lại. Ngài có thể bắt tâm Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti-magga), Nhập Lưu Quả (Sotāpatti-phala), Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī- magga), Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī-phala) của những người khác trong lộ tâm sơ bộ và Ngài cũng có thể bắt những tâm (Citta) này bằng tâm thông (Abhiññā) (tức là tâm thiền (Jhāna) thứ năm) trong lộ tâm thần thông. Nó có thể hơi khó hiểu một chút.
Tôi sẽ nhắc lại. Ngay sau khi giác ngộ, hành giả sẽ xem xét lại Đạo (Magga), Quả (Phala), Níp-bàn (Nibbāna), phiền não đã được đoạn diệt và phiền não còn dư sót. Việc này xảy ra trong lộ tâm phản khán. Trong lộ tâm phản khán, một trong bốn tâm dục giới hợp trí (Kāmāvacara Ñāṇa-sampayutta) sẽ sanh lên. Những tâm (Citta) này bắt chính tâm Đạo (Magga) và tâm Quả (Phala Citta) làm cảnh. Chúng ta giả sử rằng sau đó vị này chứng đắc thần thông (Abhiññā). Với thần thông (Abhiññā) này, Ngài sẽ cố gắng nhìn tâm Đạo (Magga Citta) và tâm Quả (Phala Citta) của những vị khác. Khi Ngài cố gắng làm việc đó, có hai lộ tâm sanh lên. Trước hết là lộ tâm sơ bộ và sau đó là lộ tâm thần thông. Trong lộ tâm sơ bộ, một trong bốn tâm thiện dục giới hợp trí (Kāmāvacara Ñāṇa-sampayutta Kusala Citta) sanh lên. Đó là lý do tại sao những tâm thiện dục giới hợp trí (Kāmāvacara Ñāṇa-sampayutta Kusala Citta) có thể bắt những tâm Đạo (Magga) và tâm Quả (Phala Citta) của những hành giả khác làm cảnh. Khi Ngài nhập vào thần thông (Abhiññā), thì tâm thiện sắc giới (Rūpāvacara Kusala Citta) sanh lên. Với tâm thiện sắc giới (Rūpāvacara Kusala Citta) này, Ngài cũng bắt những tâm Đạo (Magga) và tâm Quả (Phala Citta) của những vị khác làm cảnh. Cho nên, bốn tâm dục giới (Kāmāvacara Citta) hợp trí (Ñāṇa) và tâm thông thiện (Kusala Abhiññā) có thể bắt tất cả những tâm (Citta) trừ tâm A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và tâm A-la-hán Quả (Arahatta-phala). Vì chưa phải là A-la-hán (Arahant), cho nên các Ngài chưa chứng đắc A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la- hán Quả (Arahatta-phala) và không thể bắt những tâm (Citta) này làm cảnh.
Khi một người trở thành A-la-hán (Arahant), ngay sau khi giác ngộ cũng sẽ có lộ tâm phản khán. Trong trường hợp này, có bao nhiêu yếu tố được xem xét lại? Đạo (Magga), Quả (Phala), Níp-bàn (Nibbāna) và phiền não đã được đoạn diệt sẽ được xem xét lại, chứ không có những phiền não còn dư sót vì đối với các vị A-la-hán (Arahant), thì không còn phiền não dư sót nào. Bốn tiến trình tâm thức này sẽ sanh lên. Trong bốn lộ tâm này, một trong bốn tâm duy tác hợp trí (Kiriya Ñāṇa- sampayutta Citta) sẽ sanh lên. Tức là tâm (Citta) thứ nhất, thứ hai, thứ năm và thứ sáu. Những tâm này có thể bắt A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la-hán Quả (Arahatta-phala) của chính mình làm cảnh. Sau này, nếu Ngài có thần thông (Abhiññā), Ngài có thể bắt tâm Đạo (Magga) và tâm Quả (Phala Citta) của những vị khác làm cảnh bằng cách dùng những tâm duy tác dục giới (Kāmāvacara Kiriya) trong lộ tâm sơ bộ. Trong lộ tâm thần thông (Abhiññā), Ngài có thể bắt những tâm Đạo (Magga) và tâm Quả (Phala Citta) này bằng tâm thiền (Jhāna) thứ năm. Cho nên, bốn tâm duy tác dục giới tịnh hảo hợp trí (Kāmāvacara Sobhana Ñāṇa-sampayutta Kiriya) và tâm thông duy tác (Kiriya Abhiññā) có thể bắt tất cả những tâm (Citta) làm cảnh. Thậm chí, tâm A-la- hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la-hán Quả (Arahatta- phala) cũng được bắt.
Như tôi đã nói ở trước, tâm đoán định (Voṭṭhabbana) hay tâm hướng ý môn (Manodvārāvajjana) có thể bắt tất cả các đối tượng. Điều này chỉ xảy ra khi nó hoạt động như là một tâm sơ khởi trong lộ tâm toàn giác. Chỉ khi nào nó sanh lên trong tâm trí của Đức Phật, nó mới có thể bắt tất cả mọi đối tượng – tức là những tâm (Citta), những tâm sở (Cetasika), những sắc pháp (Rūpa), Níp-bàn (Nibbāna) và những khái niệm (Paññatti).
Các đối tượng của những tâm bất thiện (Akusala Citta) là gì? Những tâm hiệp thế (Lokiya Citta), những tâm sở (Cetasika), những sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti) là những đối tượng của những tâm bất thiện (Akusala Citta). Đối tượng của hai nhãn thức là gì? Nhãn thức bắt cảnh sắc hiện tại làm đối tượng. Đối tượng được bắt bởi nhĩ thức là gì? Nhĩ thức bắt cảnh thinh hiện tại. Hai tỷ thức bắt cảnh gì? Chúng bắt cảnh khí hiện tại. Và hai thiệt thức bắt cảnh gì? Chúng bắt cảnh vị hiện tại. Hai thân thức bắt cảnh gì? Chúng bắt cảnh xúc hiện tại.
Hai tâm tiếp thâu bắt những đối tượng gì? Chúng bắt năm đối tượng vì chúng thuộc vào ba ý giới (Mano- dhādu). Rồi ba tâm quan sát (Santīraṇa) bắt những đối tượng nào? Đối tượng của ba tâm này là gì? 54 tâm dục giới (Kāmāvacara Citta), 52 tâm sở (Cetasika), 28 sắc pháp (Rūpa) là những đối tượng của những tâm quan sát (Santīraṇa).
Chúng ta hãy nói đến những tâm thiện dục giới (Kāmāvacara Kusala). Đối tượng của hai tâm đầu tiên, tức là thiện dục giới hợp trí (Kāmāvacara Kusala Ñāṇa- sampayutta) thọ hỷ, là gì? Chúng bắt tất cả mọi đối tượng trừ A-la-hán Đạo (Arahatta-magga) và A-la-hán Quả (Arahatta-phala). Hai tâm tiếp theo, tức là thiện dục giới ly trí (Kāmāvacara Kusala Ñāṇa-vippayutta) thọ hỷ, bắt 81 tâm hiệp thế (Lokiya Citta), 52 tâm sở (Cetasika), 28 sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti). Hai tâm tiếp theo là thiện dục giới (Kāmāvacara Kusala) hợp trí và thọ xả. Chúng bắt những đối tượng gì? Chúng bắt 87 tâm (Citta), 52 tâm sở (Cetasika), 28 sắc pháp (Rūpa), Níp-bàn (Nibbāna) và những khái niệm (Paññatti). Rồi đến hai tâm cuối, tức là tâm thiện dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kusala Citta) ly trí (tức là không có trí tuệ (Ñāṇa)) thọ xả. Chúng bắt những tâm hiệp thế (Lokiya Citta), những tâm sở (Cetasika), những sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti). Tức là chúng bắt tất cả trừ những đối tượng Siêu thế (Lokuttara).
Chúng ta hãy nhìn vào những tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka Citta). Chúng bắt những đối tượng gì? Chúng bắt 54 tâm dục giới (Kāmāvacara Citta), 52 tâm sở (Cetasika) và 28 sắc pháp (Rūpa). Rất tốt.
Bây giờ, chúng ta nói đến tâm duy tác dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kiriya). Hai tâm đầu tiên là hợp trí (tức là với trí tuệ (Ñāṇa)). Chúng bắt tất cả mọi đối tượng. Rồi tâm thứ ba và thứ tư là ly trí (tức là không có trí tuệ (Ñāṇa)). Chúng bắt 81 tâm hiệp thế (Lokiya Citta), 52 tâm sở (Cetasika), 28 sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti). Rồi tâm thứ năm và thứ sáu bắt tất cả mọi đối tượng. Tâm thứ bảy và thứ tám bắt những tâm hiệp thế (Lokiya Citta), những tâm sở (Cetasika), những sắc pháp (Rūpa) và những khái niệm (Paññatti).
Những tâm khác thì dễ thôi. Mười lăm tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta) bắt những khái niệm (Paññatti). Và rồi ba tâm thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna Citta) đầu tiên bắt khái niệm (Paññatti). Chúng bắt khái niệm (Paññatti) nào? Chúng bắt không gian vô tận. Rồi ba tâm thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna) thứ hai bắt đối tượng gì? Chúng bắt cảnh Đáo đại (Mahaggata). Ở đây chúng bắt cảnh Đáo đại (Mahaggata) nào? Chúng bắt tâm thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna) thứ nhất. Ba tâm thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna Citta) thứ ba cũng bắt khái niệm (Paññatti). Chúng bắt khái niệm (Paññatti) nào? Chúng bắt sự trống không. Rồi tâm vô sắc (Arūpāvacara) thứ tư bắt đối tượng Đáo đại (Mahaggata). Cảnh Đáo đại (Mahaggata) ở đây là gì? Đó là tâm thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna) thứ ba. Rồi những tâm Siêu thế (Lokuttara) còn lại bắt Níp-bàn (Nibbāna) làm cảnh.
Nếu các bạn không nhớ, các bạn nên xem lại tài liệu CMA (CMA, III, Table 3.5, p.141) và tìm xem tâm nào bắt đối tượng nào. Nếu các bạn áp dụng kiến thức về đối tượng này vào 121 tâm, thì các bạn sẽ trở nên quen thuộc hơn với những đối tượng và tâm bắt những đối tượng đó. Những tâm (Citta) khác nhau bắt những đối tượng khác nhau. Không phải tất cả mọi tâm chỉ bắt một đối tượng. Toàn bộ có tất cả bao nhiêu đối tượng? Có sáu đối tượng. Chúng là gì? Sáu đối tượng là cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc và những cảnh pháp (Dhamma).
Những cảnh pháp (Dhamma) là gì? Những cảnh (Dhamma) là sắc thần kinh, sắc tế, tâm (Citta), tâm sở (Cetasika), Níp-bàn (Nibbāna) và những khái niệm (Paññatti). Rất tốt.
Bây giờ, ở cuối phần này trong cuốn Cẩm Nang có nói:
“25 tâm được kết nối với những đối tượng thấp hơn;…” (CMA, III, §19, p.143)
“Những đối tượng thấp hơn” có nghĩa là những đối tượng dục giới (Kāmāvacara). 25 tâm chỉ bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara). 25 tâm này là những tâm nào? 25 tâm này là hai nhãn thức, hai nhĩ thức, hai tỷ thức, hai thiệt thức, hai thân thức và rồi ba ý giới (Mano- dhātu), ba quan sát (Santīraṇa), một tâm tiếu sinh (Hasituppāda) và tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka). Cho nên, tất cả có 25 tâm. 25 tâm (Citta) này chỉ bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara). Chúng không bắt những đối tượng khác; chúng chỉ bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara).
Bây giờ, tám tâm thiện dục giới (Kāmāvacara Kusala) bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara) phải không? Đúng. Những tâm dục giới (Kāmāvacara Citta) được bao gồm trong 87 tâm (Citta) hoặc những tâm hiệp thế (Lokiya Citta). Những tâm (Citta) này bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara) cũng như những đối tượng khác. Nhưng 25 tâm trước thì chỉ bắt những đối tượng dục giới (Kāmāvacara) thôi. Điều này cũng đúng đối với những tâm duy tác dục giới (Kāmāvacara Kiriya Citta) và vân vân.
“… sáu với những tâm đáo đại; …” (CMA, III, §19, p.143)
Có bao nhiêu tâm chỉ bắt những đối tượng Đáo đại (Mahaggata)? Có sáu tâm. Chúng là những tâm nào? Chúng là ba tâm thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna) thứ hai và ba tâm thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna) thứ tư. Chúng chỉ bắt những tâm Đáo Đại làm cảnh. Chúng không bắt đối tượng nào khác.
“… 21 với những khái niệm; …” (CMA, III, §19, p.143)
21 tâm chỉ bắt những khái niệm làm cảnh. 21 tâm này là gì? Mười lăm tâm sắc giới (Rūpāvacara Citta), ba tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ nhất và ba tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) thứ ba – 21 tâm (Citta) này bắt khái niệm làm cảnh. Tâm thiền sắc giới (Rūpāvacara Jhāna) thứ nhất bắt bao nhiêu khái niệm? Trong bảng nêu ghi là nó bắt 25 loại khái niệm làm cảnh (xem CMA, III, Table 3.6, p.142). Những tâm thiền (Jhāna Citta) thứ hai bắt mười bốn khái niệm làm cảnh và vân vân.
“… tám với Níp-bàn (Nibbāna).” (CMA, III, §19, p.143)
Tức là tám tâm chỉ bắt Níp-bàn (Nibbāna) làm cảnh. Đó là tám tâm Siêu thế (Lokuttara Citta) hay 40 tâm Siêu thế (Lokuttara Citta).
Như vậy, bây giờ các bạn đã thấy những tâm khác nhau bắt những đối tượng khác nhau. Tâm thì không bao giờ không có đối tượng. Nếu không có đối tượng, thì không thể có tâm, đơn giản vì tâm là sự nhận thức cảnh. Nếu không có đối tượng, thì không thể có sự nhận thức. Cho nên, không thể có tâm. Như vậy, tâm thì luôn luôn có một đối tượng nào đó.
Những đối tượng này được chia ra làm nhiều nhóm khác nhau. Chúng có thể được chia thành sáu loại hay được chia thành dục giới (Kāmāvacara), Siêu thế (Lokuttara), những khái niệm (Paññatti), hay chúng ta có thể đi vào những chi tiết cụ thể hơn nữa. Bây giờ, tôi sẽ không đi vào những chi tiết này bởi vì nó có thể làm các bạn lẫn lộn. Có những tâm chỉ bắt những đối tượng hiện tại, có những tâm bắt những đối tượng quá khứ, hiện tại và tương lai, có những tâm chỉ bắt sự thật chân đế, có những tâm chỉ bắt những khái niệm (Paññatti) và vân vân. Còn rất nhiều chi tiết khác nữa. Nếu các bạn không quen thuộc lắm, các bạn có thể bối rối và cảm thấy khó hiểu. Bây giờ, chúng ta đã có thể tìm xem tâm nào bắt cảnh nào.