Nội Dung Chính
Cẩm Nang Nghiên Cứu Thắng Pháp Tập I
Chương Một: Ôn Lại Chương Một
Ôn Lại Chương Một
Có 121 tâm. Chúng được chia rộng ra thành 81 tâm hiệp thế (Lokiya Citta) và tám hay 40 tâm Siêu thế (Lokuttara Citta). Trong những tâm hiệp thế, những tâm nào là tâm dục giới (Kāmāvacara Citta)? Chúng là mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta), mười tám tâm vô nhân (Ahetuka Citta), và 24 tâm dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Citta).
Trong mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta), bao nhiêu tâm là với tham (Lobha)? Tám, tức là tám tâm đầu tiên thì kết hợp với tham (Lobha). Bao nhiêu tâm là với sân (Dosa)? Hai tâm (Citta) kết hợp với sân (Dosa). Bao nhiêu tâm là chỉ đi với si (Moha)? Chỉ có hai, tức là hai tâm cuối, là chỉ kết hợp với si (Moha). Si (Moha) đi với tất cả mười hai tâm bất thiện. Cho nên, chúng ta nên nói tham (Lobha) và si (Moha), sân (Dosa) và si (Moha), và chỉ có si (Moha). Khi chúng ta nói tham (Lobha), chúng ta cũng có ý nói đến si (Moha). Khi chúng ta nói sân (Dosa), chúng ta cũng có ý nói đến si (Moha). Có mười hai tâm bất thiện.
Nhóm tiếp theo là tâm vô nhân. Có bao nhiêu tâm? Có mười tám tâm (Citta) không có nhân. Chúng được chia nhỏ như thế nào? Chúng được chia ra làm ba nhóm. Nhóm thứ nhất của những tâm vô nhân (Ahetuka Citta) là những quả của những tâm bất thiện (Akusala Citta). Nhóm thứ hai của những tâm vô nhân (Ahetuka Citta) là những quả của những tâm thiện (Kusala Citta). Nhóm thứ ba của những tâm vô nhân (Ahetuka Citta) là Kiriya hay duy tác. Trong những tâm quả của bất thiện (Akusala), tâm vô nhân (Ahetuka Citta) thứ nhất là nhãn thức. Tâm thứ hai là nhĩ thức. Tâm thứ ba là tỷ thức; tâm thứ tư là thiệt thức và tâm thứ năm là thân thức. Trong quả bất thiện (Akusala-vipāka), thân thức là thọ khổ. Tâm tiếp theo là tâm tiếp thâu và tâm cuối là tâm quan sát.
Nhóm tiếp theo của những tâm vô nhân (Ahetuka Citta) là những quả của thiện (Kusala). Tâm thứ nhất là nhãn thức, tâm thứ hai là nhĩ thức, tâm thứ ba là tỷ thức, tâm thứ tư là thiệt thức và tâm thứ năm là thân thức. Ở đây, thân thức thì có thọ lạc. Tâm tiếp theo là tâm tiếp thâu. Hai tâm cuối là tâm quan sát. Có hai tâm quan sát trong số tám tâm quả của nghiệp (Kamma) thiện.
Trong nhóm cuối cùng của những tâm vô nhân (Ahetuka Citta), có ba tâm. Tâm thứ nhất là gì? Tâm hướng ngũ môn. Tâm thứ hai là tâm hướng ý môn. Tâm thứ ba là tâm tiếu sinh.
Bây giờ chúng ta hãy đi đến nhóm tiếp theo. Những tâm (Citta) trong nhóm này được gọi là tâm dục giới tịnh hảo. Có tám tâm thiện (Kusala) dục giới tịnh hảo. Bốn tâm được đi kèm theo bởi thọ hỷ. Bốn tâm còn lại được đi kèm theo bởi thọ xả. Nhóm tiếp theo là tâm quả dục giới tịnh hảo. Chúng cũng có tám: bốn được đi kèm theo bởi cảm thọ dễ chịu và bốn được đi kèm theo bởi cảm thọ thản nhiên. Nhóm thứ ba là tâm Kiriya hay duy tác. Cũng vậy có tám tâm, bốn được đi kèm theo bởi cảm thọ dễ chịu và bốn được đi kèm theo bởi cảm thọ thản nhiên. Có tất cả là 24 tâm. Mười hai cộng mười tám cộng 24, chúng ta có 54. 54 tâm này được gọi là những Kāmāvacara Citta, tức là tâm dục giới.
Nhóm tiếp theo là sắc giới (Rūpāvacara) hay chúng ta có thể gọi là tâm sắc giới. Năm tâm (Citta) thứ nhất là thiện. Năm tâm (Citta) thứ hai là quả. Năm tâm (Citta) thứ ba là Kiriya hay duy tác. Nói theo phương thức khác, thì có ba tâm thiền (Jhāna Citta) thứ nhất: một thiện (Kusala), một quả (Vipāka), một duy tác (Kiriya). Cũng vậy, có ba tâm thiền (Jhāna Citta) thứ hai: một thiện (Kusala), một quả (Vipāka), một duy tác (Kiriya). Tương tự, có ba tâm thiền (Jhāna Citta) thứ ba: một thiện (Kusala), một quả (Vipāka), một duy tác (Kiriya). Cũng theo cách này, có ba tâm thiền (Jhāna Citta) thứ tư: một thiện (Kusala), một quả (Vipāka), một duy tác (Kiriya). Và chúng ta có ba tâm thiền sắc giới (Jhāna Rūpāvacara Citta) thứ năm: một thiện (Kusala), một quả (Vipāka), một duy tác (Kiriya).
Nhóm tâm (Citta) tiếp theo là gì? Chúng là tâm vô sắc giới. Nhóm thứ nhất của những tâm vô sắc (Arūpāvacara Citta) là thiện (Kusala). Nhóm thứ hai là quả (Vipāka). Nhóm thứ ba là duy tác (Kiriya). Chúng là thiền (Jhāna) gì? Chúng là thiền (Jhāna) thứ năm. Tất cả mười hai tâm thuộc vào thiền (Jhāna) thứ năm. Chúng được đi kèm theo bởi hai yếu tố của thiền (Jhāna), tức là xả (Upekkhā) và định (Ekaggatā).
Mười lăm tâm sắc giới cộng mười hai tâm vô sắc giới cho chúng ta 27 tâm tất cả, được gọi là những tâm Đáo đại (Mahaggata Citta). Như vậy có 27 tâm Đáo đại (Mahaggata Citta). Bao nhiêu tâm là thiền (Jhāna) thứ nhất? Ba tâm là những tâm thiền (Jhāna Citta) thứ nhất. Có bao nhiêu tâm thiền (Jhāna Citta) thứ hai? Có ba tâm thiền (Jhāna Citta) thứ hai. Rồi có bao nhiêu tâm thiền (Jhāna Citta) thứ ba? Có ba tâm thiền (Jhāna Citta) thứ ba. Có bao nhiêu tâm thiền (Jhāna Citta) thứ tư? Có ba tâm thiền (Jhāna Citta) thứ tư. Và có bao nhiêu tâm thiền (Jhāna Citta) thứ năm? Có mười lăm tâm thiền (Jhāna Citta) thứ năm. Rất tốt. Tất cả, chúng ta có 81 tâm hiệp thế.
Bây giờ chúng ta hãy làm một điều hơi khó một chút. Nhóm tâm (Citta) thứ nhất chúng ta đã thảo luận là bất thiện (Akusala). Bao nhiêu tâm (Citta) thuộc về những người chưa giác ngộ? Những chúng sanh chưa giác ngộ trải nghiệm tất cả mười hai tâm. Bao nhiêu thuộc về vị Nhập Lưu (Sotāpanna)? Vị Nhập Lưu (Sotāpanna) vẫn có thể trải nghiệm bảy tâm (Citta) bất thiện. Tâm được đi kèm theo bởi hoài nghi và bốn tâm được đi kèm theo bởi tà kiến thì đã được bậc Nhập Lưu loại trừ. Chỉ có bảy tâm (Citta) bất thiện còn lại thì vẫn còn thuộc vào những vị Nhập Lưu (Sotāpanna). Bao nhiêu thuộc vào những vị Nhất Lai (Sakadāgāmī)? Các Ngài có thể trải nghiệm cùng bảy loại tâm bất thiện như vị Nhập Lưu (Sotāpanna). Bao nhiêu tâm bất thiện vẫn thuộc vào những vị Bất Lai (Anāgāmī)? Các Ngài vẫn có thể trải nghiệm năm tâm bất thiện (Akusala Citta). Như vậy, các bạn phải loại bỏ hai tâm nào? Hai tâm sân (Dosamūla Citta) bị loại bỏ. Những vị Bất Lai (Anāgāmī) đoạn diệt sân (Dosa) một cách trọn vẹn. Sân (Dosa) không thuộc vào những vị Bất Lai (Anāgāmī). Bao nhiêu thuộc vào những vị A-la-hán (Arahant)? Không có tâm bất thiện (Akusala Citta) nào thuộc vào những vị A-la- hán (Arahant) cả; những vị A-la-hán (Arahant) không bao giờ trải nghiệm bất kỳ tâm bất thiện (Akusala Citta) nào. Tốt.
Quả vô nhân bất thiện (Akusala Ahetuka Vipāka) có thể sanh lên trong tâm trí của những vị A-la-hán (Arahant) không? Có thể. Quả vô nhân thiện (Kusala Ahetuka Vipāka) cũng có thể sanh lên trong những vị A- la-hán (Arahant) không? Có thể, bởi vì những vị A-la-hán (Arahant) vẫn có thể thấy những đối tượng đẹp và xấu chẳng hạn. Các Ngài có thể nghe cả hai loại âm thanh khó chịu và du dương. Ba tâm duy tác vô nhân (Kiriya Ahetuka Citta) cũng có thể thuộc vào những vị A-la-hán (Arahant). Tâm cuối cùng, tức là tâm tiếu sinh, thì chỉ dành riêng cho những vị A-la-hán (Arahant) và những vị Phật mà thôi.
Những tâm thiện tịnh hảo dục giới (Kāmāvacara Sobhana Kusala Citta) thuộc vào những thường nhân, những vị Nhập Lưu (Sotāpanna), Nhất Lai (Sakadāgāmī) và Bất Lai (Anāgāmī). Chúng không thuộc vào những vị A-la-hán (Arahant). Những tâm quả tịnh hảo dục giới (Kāmāvacara Sobhana Vipāka Citta) thuộc vào cả những vị A-la-hán (Arahant) và những ai không phải là A-la-hán (Arahant). Những tâm duy tác tịnh hảo dục giới (Kāmāvacara Sobhana Kiriya Citta) chỉ thuộc vào những vị A-la-hán (Arahant) mà thôi.
Những tâm thiện sắc giới (Rūpāvacara Kusala Citta) thuộc vào những ai không phải là A-la-hán (Arahant). Những tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka Citta) thuộc vào những vị A-la-hán (Arahant) và những ai không phải là A-la-hán (Arahant). Những tâm duy tác sắc giới (Rūpāvacara Kiriya Citta) chỉ thuộc vào những vị A- la-hán (Arahant).
Những tâm thiện vô sắc (Arūpāvacara Kusala Citta) thuộc vào những ai không phải là A-la-hán (Arahant). Những tâm quả vô sắc (Arūpāvacara Vipāka Citta) thuộc vào những vị A-la-hán (Arahant) và những ai không phải là A-la-hán (Arahant). Những tâm duy tác vô sắc (Arūpāvacara Kiriya Citta) chỉ thuộc vào những vị A-la- hán (Arahant).
Bây giờ chúng ta đi đến tâm Siêu thế. Có tám hay 40 tâm Siêu thế. Khi chúng ta nói có tám, tức là chúng ta xem chỉ có một Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti-magga). Đây là Magga hay Đạo của vị Nhập Lưu. Khi xem theo cách này, thì chỉ có một tâm (Citta) tương ứng cho mỗi tầng chứng đắc Siêu thế: một cho Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti-magga), một cho Nhập Lưu Quả (Sotāpatti-phala), một cho Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī-magga), một cho Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī-phala), một cho Bất Lai Đạo (Anāgāmī- magga), một cho Bất Lai Quả (Anāgāmī-phala), một cho A-la-hán Đạo (Arahant-magga), một cho A-la-hán Quả (Arahant-phala). Khi chúng ta nói có 89 tâm, chúng ta xem mỗi tâm (Citta) là một tâm. Khi chúng ta nói có 121, thì chúng ta xem là có năm tâm cho mỗi tầng chứng đắc – năm cho Nhập Lưu Đạo (Sotāpatti-magga), năm cho Nhập Lưu Quả (Sotāpatti-phala), năm cho Nhất Lai Đạo (Sakadāgāmī-magga), năm cho Nhất Lai Quả (Sakadāgāmī-phala), và vân vân. Có bao nhiêu tâm Đạo (Magga Citta)? Trong 40 tâm Siêu thế (Lokuttara Citta), có 20 tâm Đạo (Magga Citta). 20 trong 40 tâm Siêu thế (Lokuttara Citta) là tâm Đạo. 20 còn lại là tâm Quả. Toàn bộ, chúng ta có 40 tâm Siêu thế. Rồi khi chúng ta cộng 40 với 81, chúng ta có tất cả là 121 tâm.
Bây giờ chúng ta hãy xem là có 89 tâm. Trong 89 tâm, có bao nhiêu là bất thiện (Akusala)? Có mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta). Bao nhiêu là thiện (Kusala)? Có 21 tâm thiện (Kusala Citta). Chúng là tám tâm thiện dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kusala Citta), năm tâm thiện sắc giới (Rūpāvacara Kusala Citta), bốn tâm thiện vô sắc (Arūpāvacara Kusala Citta) và bốn tâm Đạo (Magga Citta). Bao nhiêu là quả (Vipāka)? Những tâm quả (Vipāka Citta) là mười lăm tâm quả vô nhân (Ahetuka Vipāka Citta), tám tâm quả dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Vipāka Citta), năm tâm quả sắc giới (Rūpāvacara Vipāka Citta), bốn tâm quả vô sắc (Arūpāvacara Vipāka Citta) và bốn tâm Quả (Phala Citta). Bao nhiêu là duy tác (Kiriya)? Những tâm duy tác (Kiriya Citta) là ba tâm duy tác vô nhân (Ahetuka Kiriya Citta), tám tâm duy tác dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kiriya Citta), năm tâm duy tác sắc giới (Rūpāvacara Kiriya Citta) và bốn tâm duy tác vô sắc (Arūpāvacara Kiriya Citta). Không có duy tác (Kiriya) trong Siêu thế (Lokuttara). Các bạn có nhớ không? Không có duy tác (Kiriya) trong Siêu thế (Lokuttara) vì tâm Đạo chỉ sanh lên một lần.
Nếu chúng ta xem là có 121 tâm, thì có bao nhiêu tâm thiện (Kusala Citta)? Có tất cả 37. Có bao nhiêu tâm quả (Vipāka Citta)? Có tất cả là 53 tâm quả (Vipāka Citta).
Bao nhiêu tâm được đi kèm theo bởi thọ hỷ (Somanassa)? Có 62 tâm (Citta) được kết hợp với thọ hỷ (Somanassa). Bao nhiêu tâm được đi kèm theo bởi thọ xả (Upekkhā)? Có 55 tâm (Citta) được kết hợp với thọ xả (Upekkhā). Bao nhiêu tâm được đi kèm theo bởi thọ ưu (Domanassa)? Hai tâm sân (Dosamūla Citta) là những tâm được đi kèm theo bởi thọ ưu (Domanassa). Bao nhiêu được kết hợp với thọ khổ (Dukkha)? Tâm vô nhân (Ahetuka Citta) sanh lên với cảm thọ không hài lòng về thân xác thì được đi kèm với thọ khổ (Dukkha). Tâm nào được kết hợp với thọ lạc (Sukha)? Tâm vô nhân (Ahetuka Citta) sanh lên với cảm thọ hài lòng về thân xác thì được đi kèm với thọ lạc (Sukha) (xem CMA, III, Table 3.1, p.118). Rất tốt. Như vậy chúng ta có tất cả 121 tâm.
Những Câu Hỏi Ôn Tập
- Hai sự thật là gì?
Sammuti-sacca = sự thật chế định,
Paramattha-sacca = sự thật chân đế.
- Bốn sự thật chân đế (Paramattha) được nghiên cứu trong Thắng Pháp (Abhidhamma) là gì?
Citta = tâm,
Cetasika = tâm sở,
Rūpa = sắc pháp,
Nibbāna = Níp-bàn.
- Tam giới là gì?
Kāmāvacara Bhūmi = dục giới,
Rūpāvacara Bhūmi = sắc giới,
Arūpāvacara Bhūmi = vô sắc giới.
- Từ Pāḷi của hiệp thế và Siêu thế là gì và mỗi loại có bao nhiêu tâm?
Lokiya = hiệp thế (81),
Lokuttara = Siêu thế (8 hay 40).
- Nếu phân chia theo bản chất thì có bốn loại tâm. Chúng là gì và có bao nhiêu tâm trong mỗi nhóm?
Kusala = thiện (37 hay 21),
Akusala = bất thiện (12),
Vipāka = quả (52 hay 36),
Kiriya = duy tác (20).
- Ba nhân của những tâm bất thiện (Akusala Citta) là gì?
Lobha = tham,
Dosa = sân,
Moha =
- Nêu tên năm loại cảm thọ (Vedanā) và có bao nhiêu tâm (Citta) trong mỗi loại thọ (Vedanā)?
- Sukha = thọ lạc (1),
- Dukkha = thọ khổ (1),
- Somanassa = thọ hỷ (62),
- Domanassa = thọ ưu (2),
- Upekkhā = thọ xả (55).
-
- Định nghĩa Sasaṅkhārika và Asaṅkhārika.
- Sasaṅkhārika là hữu trợ.
- Asaṅkhārika là vô trợ hay tự phát.
- Định nghĩa Sasaṅkhārika và Asaṅkhārika.
- Vicikicchā nghĩa là gì?
Từ này thường được dịch là hoài nghi. Trong Thắng Pháp (Abhidhamma), nó có nghĩa là hoài nghi về những sự thật nền tảng mang tính chất tâm linh như quy luật của nghiệp (Kamma), Duyên Khởi, năng lực của sự thực hành thiền để loại bỏ những phiền não, vân vân.
- Tâm (Citta) là gì?
Tâm (Citta) là sự nhận biết đối tượng thuần túy hay sự nhận biết của tâm ý. Trong Thắng Pháp (Abhidhamma), tâm (Citta) được xem là vẫn có hiện hữu ngay khi một người “bất tỉnh” hay ngủ mê.
- Khi tâm bất thiện (Akusala Citta) có Diṭṭhi, tâm đó được kết hợp với cái gì?
Tà kiến được kết hợp với tâm (Citta) đó.
- Si (Moha) được kết hợp với tâm (Citta) nào?
Si (Moha) được kết hợp với tất cả mười hai tâm bất thiện (Akusala Citta). Với những tâm si (Mohamūla), si (Moha) là nhân duy nhất.
- Định nghĩa từ “Ahetuka” và có bao nhiêu tâm (Citta) trong nhóm Ahetuka?
Từ Ahetuka có nghĩa là không có nhân, cụ thể không có cả sáu nhân: vô tham (Alobha), vô sân (Adosa), vô si (Amoha), tham (Lobha), sân (Dosa) và si (Moha). Có mười tám tâm (Citta) trong nhóm vô nhân (Ahetuka). Những tâm (Citta) này thì không có nhân, nhưng điều này không có nghĩa là chúng không có nguyên nhân.
- Sự khác nhau giữa nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai của những tâm vô nhân (Ahetuka Citta) là gì?
Nhóm thứ nhất là kết quả của nghiệp bất thiện (Akusala Kamma) được thực hiện trong quá khứ.
Nhóm thứ hai là kết quả của nghiệp thiện (Kusala Kamma) được thực hiện trong quá khứ.
- Hãy cho một vài ví dụ của sân (Dosa) thụ động.
Một vài ví dụ của sân (Dosa) thụ động là sợ hãi và phiền muộn.
- Định nghĩa từ Pañcadvārāvajjana.
Pañcadvārāvajjana là thời điểm tâm (hay sát-na tâm) trong lộ trình tâm mà tại lúc đó, tâm ý hướng đến một trong năm giác quan.
- Hasituppāda là gì?
Đó là tâm tiếu sinh chỉ dành riêng cho những vị A- la-hán (Arahant) và những vị Phật.
- Có bao nhiêu tâm (Citta) trong nhóm dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana) và những tâm (Citta) nào được tìm thấy trong từng sự phân chia nhỏ của nhóm này?
Có 24 tâm (Citta) trong nhóm này. Có ba sự phân chia nhỏ: Nhóm thứ nhất gồm những tâm thiện (Kusala Citta), nhóm thứ hai gồm những tâm quả (Vipāka Citta), nhóm thứ ba gồm những tâm duy tác (Kiriya Citta).
- Một vài tâm dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Citta) có hai nhân và một vài có ba nhân. Hai nhân nào là thông dụng đối với tất cả những tâm (Citta)?
Nhân còn lại nào thì chỉ thông dụng với một vài tâm (Citta) mà thôi?
Alobha (vô tham hay sự rộng lượng) và Adosa (vô sân hay lòng từ) là thông dụng đối với tất cả.
Paññā hay Amoha (vô si hay trí tuệ) thì chỉ thông dụng với một vài mà thôi.
- Sự khác nhau giữa những tâm thiện dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kusala Citta) và những tâm duy tác dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kiriya Citta) là gì?
Những tâm thiện dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kusala Citta) là những hành động thế tục mang tính thiện được thực hiện bởi phàm nhân và những Thánh nhân (Ariya) bậc thấp. Những tâm duy tác dục giới tịnh hảo (Kāmāvacara Sobhana Kiriya Citta) là những hành động thế tục được thực hiện bởi những vị A- la-hán (Arahant) hay những vị Phật.
- Năm yếu tố của thiền (Jhāna) hay năm chi thiền là gì?
- Vitakka = tầm.
- Vicāra = tứ.
- Pīti = hỷ.
- Sukha = lạc.
- Ekaggatā = định.
- Những yếu tố của thiền (Jhāna) tạm thời đè nén những triền cái nào?
Vitakka (tầm) – Thina (hôn trầm) và Middha (thụy miên),
- Vicāra (tứ) – Vicikicchā (hoài nghi),
- Pīti (hỷ) – Vyāpāda (sân),
- Sukha (lạc) – Uddhacca (trạo cử) và Kukkucca (hối quá),
- Ekaggatā (định) – Kāmacchanda (ái dục),
- Upekkhā (Xả) – Uddhacca (trạo cử) và Kukkucca (hối quá).
- Hai loại thiền là gì?
Hai loại thiền là thiền chỉ (Samatha) và thiền quán (Vipassanā).
- Có bao nhiêu đối tượng (đề mục) của thiền chỉ (Samatha) theo truyền thống? Những sự phân chia chính của những đối tượng này là gì?
Có 40 đối tượng (đề mục) của thiền chỉ (Samatha) theo truyền thống.
Có mười đối tượng Kasiṇa.
Có mười đối tượng Asubha (những xác chết ở những mức độ thối rữa khác nhau).
Có mười sự tùy niệm (Phật, Pháp, Tăng, vân vân).
Có bốn Phạm trú tức là tứ vô lượng tâm (những Brahmavihāra).
Sự ghê tởm của thức ăn là một trong những đề mục thiền.
Tứ Đại là một đề mục thiền khác.
Bốn đối tượng vô sắc là một nhóm của những đề mục khác.
- Bốn Phạm trú (Brahmavihāra) là gì?
Mettā = Từ,
Karuṇā = Bi,
Muditā = Hỷ,
Upekkhā = Xả.
- Ba tướng của sự hiện hữu hay của các pháp hữu vi là gì?
Anicca = vô thường,
Dukkha = khổ,
Anatta = vô ngã.
- Nêu tên bốn tầng thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna).
Ākāsānañcāyatana = Thiền (Jhāna) có không gian vô tận làm đối tượng (Không vô biên xứ).
Viññāṇañcāyatana = Thiền (Jhāna) có tâm vô tận làm đối tượng (Thức vô biên xứ).
Ākiñcaññāyatana = Thiền (Jhāna) dựa trên sự trống không, có nghĩa là sự vắng mặt của thiền vô sắc (Arūpāvacara Jhāna) thứ nhất, làm đối tượng (Vô sở hữu xứ).
Nevasaññānāsaññāyatana = Xứ không có tưởng cũng không không có tưởng làm đối tượng (Phi tưởng phi phi tưởng xứ).