CHƯƠNG 18
NHỮNG CƠN MƯA ‘LÁ SEN’ RƠI XUỐNG HỘI CHÚNG HOÀNG GIA
Đức Phật đi xuống khỏi con đường châu báu ở gần kinh thành Kapilavatthu, sau khi nhiếp phục tánh cống cao ngã mạn của những quyến thuộc trong hoàng tộc Thích ca bằng cách thuyết giảng thời pháp về Buddhavaṃsa, rồi ngồi trên pháp tọa đã được sửa soạn dành cho Ngài.
Lúc bấy giờ tất cả những trong hoàng gia Thích ca đã hội về trước Đức Phật và tự ngồi xuống với tâm nhu nhuyến và có tập trung. Khi ấy bỗng nhiên mưa ‘lá sen’- pokkharavassa, rơi xuống .
Khi con mưa lớn đổ xuống, những dòng nước mưa có màu hồng ngọc đang chảy mạnh trên đất, trong khi đó nước mưa chỉ thấm ướt những người muốn được ướt, còn những người không muốn ướt thì chẳng có giọt nước mưa nào rơi xuống trên người họ.
Tất cả những người Thích ca đều kinh ngạc trước cảnh tượng kỳ diệu như vậy và thốt lên rằng: “ Ôi, điều kỳ diệu như vậy quả đáng được tán dương! Đây quả thật là một hiện tượng mà trước kia chưa bao giờ có!” Khi nghe những lời tán thán như vậy, Đức Phật nói lời nhận xét: “ Đây không phải là lần đầu tiên có mưa ‘pokkharavassa’ rơi xuống giữa hội chúng quyến thuộc của hoàng gia. Trong quá khứ, mưa như vậy cũng đã rơi xuống.” Rồi Đức Phật kể lại câu chuyện Vessantara bằng một ngàn câu kệ.
Sau khi nghe câu chuyện về Vessantara, tất cả những quyến thuộc trong hoàng gia đều ra đi, không ai đến thỉnh mời Đức Phật như “ Xin Đức Thế Tôn hãy đến thọ nhận vật thực vào ngày mai.”
Vua Suddhodana suy nghĩ và đoan chắc rằng: “ Không có nơi nào ngoài cung điện của ta để Đức Thế Tôn, con trai ta đến viếng, Ngài chắc chắn sẽ đến cung điện của ta.” Khi tin chắc như vậy, đức vua trở về hoàng cung mà không nói lời thỉnh mời đặc biệt nào. Tại hoàng cung, đức vua truyền lịnh cho sửa soạn mọi thứ như món cơm dẽo, v.v… và thức ăn dành cho hai chục ngàn vị A-la-hán do Đức Phật dẫn đầu.
Đức Phật vào thành Kapilavatthu khất thực
Vào ngày hôm sau khi Đức Thế Tôn đi vào kinh thành cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán, không một người Thích ca nào trong hoàng tộc đến chào đón Ngài. Không ai đến ôm bát giúp Ngài.
Khi Đức Phật đặt chân đến cổng vào thành Kapilavatthu, Ngài bắt đầu suy xét về cách mà chư Phật quá khứ thường đi khất thực trong kinh thành của phụ hoàng các Ngài rằng: Ngài nên khất thực ở những nhà người giàu, có địa vị, hay đi khất thực từng nhà, bất chấp giàu nghèo? Ngài đã dùng đến Túc mạng thông (pubbenivasa- abhiññā) để dò xét những kiếp quá khứ. Nhờ vậy, Ngài đã khám phá ra rằng: không một vị Phật nào trong quá khứ chỉ đi khất thực ở những nhà của các trưởng giả; không vị Phật nào đi chệch khỏi pháp hành trong việc đi khất thực từng nhà. Vì thế Ngài quyết định giữ truyền thống thực hành đi khất thực từng nhà cao quý ấy. Ngài suy nghĩ: “Hãy lấy chính Ta làm gương, các đệ tử sẽ bắt chước theo pháp hành của Ta và làm tròn phận sự truyền thống của vị tỳ khưu là đi khất thực từng nhà mà không bỏ sót nhà nào.” Khi đã quyết định như vậy, Ngài bắt đầu khất thực từ ngôi nhà gần nhất ở cổng thành, lần lượt nhà này đến nhà khác.
[Sau đây là bài mô tả tóm tắt về cảnh Đức Phật viếng thăm hoàng cung, trích từ bộ Chú giải Majjhimapaññāsa, trang 16-17]:
Khi Đức Thế Tôn đi vào kinh thành, thì quả đất rung chuyển dữ dội. Ngài đi khoan thai, không giẫm lên dầu một con côn trùng bé nhỏ nhất như kiến, v.v… Trước hết, Ngài bước chân phải có tướng ‘lòng bàn chân bằng phẳng như đôi giày chỉ vàng – supatitthita lakkhana’; hai bàn chân mềm của Ngài, bằng phẳng và mịn nhẵn, chạm đều xuống đất, vuông vức và tròn đầy mà không dính một hạt bụi nhỏ nhất nào. Khi Ngài đang đi những chỗ đất thấp thì đất tự nâng lên cao cho bằng phẳng, liền lạc và những mô đất thì tự hạ xuống cho bằng với mặt đường; tất cả sỏi đá, gốc cây, hay gai nhọn đều tự dời đi khỏi con đường. Ngài đi với bước đi bình thường, không quá nhanh cũng không quá chậm, sải bước của Ngài không quá dài cũng không quá ngắn, và khi đi hai mắt cá chân và hai đầu gối không bao giờ chạm vào nhau. Là bậc có định tâm cao, Ngài nhìn thẳng về phía trước với tầm nhìn chỉ trong bốn hắc tay, không nhìn lên, không nhìn xuống cũng không nhìn qua hai bên. Ngài đi với oai phong của con voi Chaddanta (hai ngà phát ra hào quang sáu màu).
Khi Đức Thế Tôn đang đi khất thực từng nhà trong kinh thành, những người sống ở trong những ngôi nhà hai và ba tầng bèn đi ra ở balcon nhà, tựa trên những đầu cột có hình sư tử, để đảnh lễ Đức Phật, thốt lên: “ Chúa thượng cao quý của chúng ta, Thái tử Siddhattha đang nhận khất thực.”
Hoàng hậu Yasodharā, mẹ của Rāhula tự nghĩ rằng: “ Ngày xưa, vị chúa oai phong của ta thường đi đó đây trong vẻ cao sang và uy nghi của vị đế vương, được khiêng đi trong chiếc kiệu vàng. Nhưng giờ đây, người ta nói rằng, Ngài đi vào kinh thành để khất thực với râu tóc đã được cắt ngắn, trong y phục đã nhuộm, với bình bát trong tay. Điều ấy có thích hợp hay không?” Khi nghĩ vậy, bà mở cửa sổ trên balcon mà trên đầu cột có hình đầu sư tử và tận mắt nhìn thấy, những con đường chính cũng như những lối đi nhỏ đều được chiếu sáng rực rỡ bởi những chùm ánh sáng phát ra từ thân của Ngài, và Đức Phật đang rảo bước một cách oai vệ, với ba mươi hai hảo tướng và tám mươi tướng phụ, thêm hào quang sáu màu ở quanh Ngài. (Đưa ngón tay về phía Đức Phật), nàng lôi cuốn sự chú ý của Rahula và nói lên mười câu kệ ‘Narasiha’ để tán dương nhân cách rực rỡ của Đức Phật từ trán xuống đến chân của Ngài.
Mười câu kệ ‘ Narasiha’ (Tán dương những hảo tướng trên thân của Đức Phật)
(1) Siniddhanīla mudukuñcitta keso
suriyanimmalābhinalāṭo
yuttatuṅgamudukāyatanāso
raṁsijālavitato narasīho.
Tóc của Ngài đen nhánh và bóng như màu của con ong nghệ với ngọn tóc uyển chuyển xoắn lại theo chiều kim đồng hồ; trán bóng loáng như mặt trời đang mọc trong suốt; mũi mềm, mảnh khảnh nhô lên một cách cân đối như chiếc gậy hích; thân sáng chói rực rỡ, Bậc phạm hạnh cao quý nhất trong nhân loại, và thật là một nhân vật phi thường, đáng kính!
(2) Cakkavaraṅkitasurattapādo
lakkhanamaṇḍitā ayatapaṇhi
cāmarachattavibhūsitapādo
esa hi tuyha pitā narasīho.
Thật là vui sướng cho đôi mắt của ta, này con thân Rāhu, Bậc phạm hạnh cao quý nhất trong loài người! Đôi bàn chân của Ngài có màu đỏ của hồng ngọc cùng những đặc tướng khác; tướng cao quý trang sức cho hai gót chân và đôi bàn chân của Ngài in hình những chiếc lọng trắng và những cái phất trần màu vàng. Con người đáng kính ấy đang đi khất thực, giữa hai chục ngàn vị La-hán, như mặt trăng tròn đầy chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(3) Sakyakumāravaro sukhumālo
lakkhanacittikapunnasarīro
lokahitātya gato naravīro
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, Ngài là vị thái tử cao quý thanh lịch, hậu duệ của dòng dõi Thích ca vô địch, bao đời không bị gián đoạn; Ngài có thân tuyệt hảo vẹn toàn với các tướng chánh và tướng phụ cao quý; Ngài đã sanh ra trong thế gian này vì lợi ích cho ba cõi, người có pháp tinh tấn vượt trội tất cả những kẻ khác, con người phi thường, Bậc cao quý nhất trong nhân loại, con người đáng kính ấy đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán như mặt trăng tròn đầy chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(4) Āyatayuttasuta saṇḍhitasoto
gopakhumo abhinīlasunetto
Indadhanu abhinīlabhamuko
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, đôi tai xinh đẹp của người có kích thước cân đối, lông mi mềm như lông mi của con bê mới sanh, đôi mắt đậm như mã não, và hai hàng lông mày màu nâu sẫm cong như cây cung của vua trời Đế Thích. Con người đang kính ấy đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị La-hán như mặt trăng tròn đầy chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(5) Punnasasaṅkanibho mukhavanno
devanarāna piyo naranāgo
mattagajindavilāsitagāmi
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, gương mặt trong sáng của vị tỳ khưu tôn kính, như mặt trăng tròn đầy đặn trong ngày rằm, người xứng đáng được tôn kính nhất và được sự yêu mến chân thật của tất cả chúng sanh trong ba cõi nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Ngài có thế ví như con voi chúa hùng mạnh với dáng đi oai vệ của con voi chúa cường tráng. Con người đáng kính ấy đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị La-hán như mặt trăng rằm chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(6) Siniddhagambhīramañjūsagoso
hiṅgulabandhukaratthasujiwho
vīsati vīsati setasundanto
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, người có giọng nói sâu lắng êm ái và cực kỳ thanh tao, lưỡi đỏ như màu của hoa hồng, hai hàm răng trắng bóng, mỗi hàm có hai mươi cái, là con người phi thường và là bậc phạm hạnh cao quí nhất trong nhân loại. Con người đáng kính ấy đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán như mặt trăng tròn chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(7) Khattiyasambhava aggakulīno
Devamanussanamassitapādo
Sīlasamādhipatiṭṭhitacitto
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, người thuộc dòng dõi hoàng gia, thật sự cao quý, chúng sanh trong ba cõi đều cúi mình tôn kính dưới chân người, người có giới định vững chắc và trạng thái tâm an tịnh, điềm tĩnh, bậc cao quý nhất trong nhân loại. Con người đáng kính ấy đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán như mặt trăng tròn chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(8) Vaṭṭasuvaṭṭasusaṇḍitagīvo sihahanu
migaraja sariro
kañcanasucchavi uttamavanno
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, người có cổ tròn đầy như hình của cái trống vàng mayo; hàm tròn cân đối như hàm của sư tử chúa và tựa như sắp mĩm cười, như mặt trăng trong đêm 12; thân có ngực đầy như phần trước của con sư tử, chúa tể của muôn thú; da sáng bóng có màu của vàng thuần khiết, và tướng mạo cao quý vô song; bậc cao quý nhất trong nhân loại. Con người đáng kính đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán như mặt trăng tròn chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(9) Añcanavannasunīlasukeso
kañcanapaṭṭavisuddhanalaṭo
osadhipaṇḍarasuddhasuṇṇo
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, người ấy có tóc đen huyền sáng bóng, trán sáng như đĩa bằng vàng và như sao mai, và một sợi lông thuần trắng xoắn lại nằm giữa hai hàng chân mày, bậc cao quý nhất trong nhân loại. Con người đáng kính ấy đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán như mặt trăng tròn chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
(10) Gacchatiṅ nilapathe viya cando
tāragaṇā pariveṭhitarūpo
svakamajjhagato samaṇindo
esa hi tuyha pitā narasīho.
Này Rahula con thân yêu, như chiếc xe mặt trăng du hành một cách rực rỡ theo con đường xuyên qua hư không, cũng vậy vị chúa tể của các Sa-môn, vua của các Pháp, đi một cách oai vệ giữa các đệ tử A-la-hán; bậc cao quý nhất trong nhân loại. Con người đáng kính ấy đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán như mặt trăng tròn chiếu sáng giữa các vì sao, đó chính là cha của con khi Ngài còn ở thế tục.
Sau khi chỉ cho con trai Rāhula, thấy sự rực rỡ, nét duyên dáng về con người của Đức Phật; bà đi đến vua Suddhodana và nói rằng: “ Tâu phụ hoàng, nghe tin rằng con trai của người, Đức Phật, đang đi khất thực cùng với hai chục ngàn vị A-la-hán.”
Vua Suddhodana chứng đắc Sơ đạo (Sotāpatti-magga)
Vua Suddhodana bàng hoàng xúc động khi vị ấy nghe công chúa Yasodhara nói, vị ấy hối hả chạy ra khỏi cung điện và đi nhanh đến gặp Đức Phật, đứng trước Ngài và nói rằng: “ Thưa Đức Phật, tại sao Ngài đi khất thực để làm nhục chúng ta? Tại sao Ngài lại nghĩ rằng lượng vật thực đầy đủ cho số đông đến hai chục ngàn vị A-la-hán mà không thể được cung cấp bởi phụ vương của Ngài?” Đức Phật đáp lại rằng: “ Thưa phụ hoàng, pháp hành đi khất thực từng nhà (sapadanacarika) là thông lệ của tất cả chư Phật.” Vua Suddhodana đáp lại bằng những lời này: “ Này con, há không phải rằng chúng ta là con cháu của dòng dõi Sát-đế-lỵ (Khattiya) những nhà cai trị vĩ đại kế tục nhau, không gián đoạn từ lúc khởi đầu của thế giới, và trong số những vị Khattiya vĩ đại này, chưa có vị nào đi đây đó xin ăn.” Rồi Đức Phật đáp lại: “ Thưa phụ hoàng, dòng dõi của những nhà cai trị Khattiya là dòng dõi của phụ hoàng; tổ tiên của Như Lai là chư Phật, theo thứ tự nối tiếp của Buddhavaṃsa từ Đức Phật Dīpaṅkara, Koṇḍañña, Maṅgala đến Đức Phật Kassapa. Bắt đầu từ Đức Phật Dīpaṅkara và kết thúc là Đức Phật Kassapa, những vị Phật xuất hiện trước Như Lai tổng cộng là hai mươi bốn vị, thậm chí hằng ngàn vị Phật nhiều như cát sông Hằng, cũng luôn đi khất thực tuần tự từng nhà như thế. Chính pháp hành đi khất thực tuần tự từng nhà luôn là phương tiện kiếp sống của các vị Phật chúng ta.” Và trong khi dừng lại trên đường trong chốc lát, Đức Phật bèn tuyên kệ :
Uttiṭhe nappamajjeyya
Dhammaṁ sucaritaṁ care
Dhammacāri sukhaṁ seti
asmiṁ loke paramhi ca.
“ Thưa phụ hoàng, vị tỳ khưu đi khất thực đứng trang nghiêm ở trước cửa nhà mỗi gia chủ, nên chánh niệm khi thọ lãnh vật thực; vị ấy không nên thọ lãnh hoặc tìm kiếm vật thực bằng phương tiện bất chánh; vị ấy nên thực hành pháp đi khất thực bằng cách đáng khen ngợi như vậy. Vị tỳ khưu trau dồi pháp hành này không sai sót trong phương cách như vậy, sẽ sống an lạc trong kiếp sống này cũng như kiếp mai sau.”
Vào lúc kết thúc câu kệ, vua Suddhodana chứng đắc quả thánh Nhập lưu – Sotāpatti-phala.
Vua Suddhodāna trở thành bậc thánh Anāgāmi và di mẫu Mahāpajapati Gotami chứng đắc quả Sotāpanna
Sau khi trở thành bậc thánh Sotāpanna, vua Suddhodana lãnh bình bát từ tay của Đức Phật và thỉnh Đức Phật cùng hai chục ngàn vị A-la-hán đến hoàng cung của vị ấy về nơi đã chuẩn bị sẵn những chỗ ngồi cao quý. Khi đến tại hoàng cung, Đức Phật tuyên thuyết câu kệ sau đây:
Dhammaṁ care sucaritaṁ na
naṁ ducaritaṁ care
dhammacāri sukhaṃ seti
asmiṁ loke paramhi ca.
Thưa phụ hoàng, cách tìm kiếm vật thực không đúng pháp cần phải được kiên tránh và cách thọ lãnh vật thực đúng pháp nên được thực hành theo. (Chỗ ngụ của người bán nam bán nữ, quán rượu, kỹ nữ, đàn bà góa hoặc đã ly dị với chồng, tỳ khưu ni… là những nơi không thích hợp để đi khất thực (agocara-thana), cần phải tránh xa). Vị tỳ khưu trau dồi pháp hành này không sai sót sẽ sống an lạc trong kiếp này và kiếp sau.”
Vào lúc kết thúc câu kệ thứ hai này, vua Suddhodana chứng đắc quả thánh A-na-hàm (Anāgāmi), còn bà di mẫu Mahāpajapati Gotamī thì chứng đắc quả thánh Nhập lưu (Sotāpanna).
Rồi vua Suddhodana dâng cúng nhiều vật thực thượng vị, loại cứng và loại mềm, vốn đã được chuẩn bị trước dành cho Đức Phật và hai chục ngàn vị A-la-hán.