Nội Dung Chính
SAYAGYI’S INVITATION TO WEBU SAYADAW: VIỆC THỈNH MỜI CỦA GIÁO THỌ ĐẾN ĐẠI TRƯỞNG LÃO WEBU
In 1953, Sayagyi sent U Boon Shein, who worked in the Accountant General’s Office, to Kyauksai to make a formal invitation to Venerable Webu Sayadaw. Sayagyi did not give U Boon Shein a formal letter of invitation for the Sayadaw, “Just say that I sent you,” Sayagyi said and gave him instructions concerning the invitation. He added that he would also invite the Sayadaw from Yangon.
Vào năm 1953, Giáo Thọ đã gửi Ông Boon Shein, là người đã làm việc trong Văn Phòng Kế Toán Trưởng, đến Kyauksai để thực hiện một việc thỉnh mời chính thức đến Ngài Đại Trưởng Lão Webu. Giáo Thọ đã không có đưa Ông Boon Shein một lá thư mời chính thức đến Đại Trưởng Lão, “Chỉ nói rằng Tôi đã gửi Ông đến,” Giáo Thọ đã nói và đã cho ông ta những sự hướng dẫn liên quan đến việc thỉnh mời. Ông đã nói thêm rằng ông cũng sẽ thỉnh mời Đại Trưởng Lão từ Yangon.
U Boon Shein’s first stop was at a friend’s house in Mandalay. “So, it’s great U Boon Shein,” his friend said in greeting him. “What brings you to Upper Myanmar so unexpectedly?”.
“My teacher has sent me here on a special mission,” U Boon Shein replied. “I came on the first available plane. Can you get me car, my friend ?”.
“Who is your teacher ? And just what is your special mission ?” his friend asked.
“My teacher is Sayagyi U Ba Khin, the Accountant General,” U Boon Shein replied. “A group of us in the Accountant General’s Office have set up a Vipassanà Association and opened a meditation centre. We’ve built a pagoda there. The Accountant General is the teacher at the centre, that’s why we call him “Sayagyi”(revered teacher). He has asked me to invite Venerable Webu Sayadaw to come to Yangon, so I have to go to Kyauksai”.
“You must be mad, U Boon Shein, “his friend said. “Venerable Webu Sayadaw doesn’t even come to Mandalay. What makes you think he’d go as far away as Yangon ? He never leaves his monastery. He never accepts invitations.”
“My dear fellow,” U Boon Shein said, “I don’t know anything about all that. It doesn’t concern me. My duty is to simply go to the Sayadaw and convey the message my teacher gave me. The Sayadaw can tell me himself whether he will accept the invitation to come to Yangon or not. Please just arrange for me to have a car to go to Kyauksai as quickly as possible !”
Chặng dừng đầu tiên của Ông Boon Shein là ở tại nhà của một người bạn trong thành phố Mandalay. “Ồ thế, quả là tuyệt vời Ông Boon Shein,” người bạn của ông đã nói trong lời chào đón ông ta. “Điều chi dẫn bạn đến Thượng Phần Miến Điện một cách quá bất ngờ như vậy ?”
“Thầy của tôi đã gửi tôi đến đây trong một nhiệm vụ đặc biệt,” Ông Boon Shein đã trả lời. “Tôi đã đến trong chuyến bay đầu tiên đã có sẵn. Nầy người bạn của tôi, ông có thể kiếm cho tôi một chiếc xe ?”
“Ai là người thầy của bạn ? Và quả thật điều chi là nhiệm vụ đặc biệt của bạn vậy ?” người bạn của ông đã vấn hỏi.
“Thầy của tôi là Giáo Thọ Ba Khin, vị Kế Toán Trưởng,” Ông Boon Shein đã trả lời. “Một nhóm của chúng tôi trong Văn Phòng Kế Toán Trưởng đã thiết lập một Hiệp Hội Thiền Minh Sát và đã khai sáng một trung tâm thiền viện. Chúng tôi đã kiến tạo một ngôi chùa ở nơi đó. Vị Kế Toán Trưởng là vị thầy ở tại Thiền
Viện, đó là lý do tại sao chúng tôi gọi ông ta là “Giáo Thọ” (vị thầy tôn kính). Ông đã yêu cầu tôi đi thỉnh mời Ngài Đại Trưởng Lão Webu để đến Yangon, và như thế tôi phải đi đến Kyauksai.”
“Bạn phải bị điên lên thôi, Ông Boon Shein,” người bạn của ông ta đã thốt lên. “Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã không đi đến chí ngay tại thành phố Mandalay. Điều chi đã làm cho bạn nghĩ rằng Ngài sẽ đi xa tít tận đến Yangon ? Ngài không bao giờ rời khỏi tu viện của mình. Ngài không bao giờ chấp thuận những việc thỉnh mời.”
“Nầy bạn đồng nghiệp thân thương của tôi” Ông Boon Shein đã nói. Tôi chẳng biết bất luận điều chi về tất cả sự việc đó. Nó chẳng có quan hệ đến tôi. Nhiệm vụ của tôi chỉ đơn giản là đi đến Đại Trưởng Lão và chuyển đạt lời nhắn tin của thầy tôi đã trao cho tôi. Tự chính nơi Đại Trưởng Lão có thể bảo với tôi là Ngài sẽ chấp thuận hoặc là không về việc thỉnh mời để đi đến Yangon. Vậy xin vui lòng bố trí cho tôi có một chiếc xe để đi đến Kyauksai càng nhanh càng tốt.
The car was arranged and U Boon Shein approached Venerable Webu Sayadaw around lunch time. In those days, the Sayadaw was not surrounded by crowds of people making offerings when he had his meals – there were only two lay nuns, three or four lay women, and two attendants present. The lay disciples and the attendants, named U Kyaung and Bo Tun, served the Sayadaw every day.
Chiếc xe đã được bố trí và Ông Boon Shein đã tiếp xúc Ngài Đại Trưởng Lão Webu vào khoảng thời gian thọ Trai Ngọ. Trong những ngày đó, Đại Trưởng Lão không bị vây quanh bởi đám đông người xúm lại thực hiện việc cúng dường khi Ngài thọ dụng vật thực của mình – hiện diện ở nơi đó chỉ có hai vị nữ tu, ba hoặc bốn nữ cư sĩ, và hai vị thị giả. Các vị cư sĩ đệ tử và thị giả, với tên gọi là Ông Kyaung và Bo Tun, đã phục vụ Đại Trưởng Lão mỗi ngày.
“I have come with a message from Sayagyi U Ba Khin, Venerable Sir,” U Boon Shein told Venerable Webu Sayadaw. The Sayadaw looked up from his bowl, glanced at U Boon Shein, and said, “Yes, yes,” then continued his meal. When U Boon Shein looked at the Sayadaw’s face, he had the impression the Sayadaw was saying, “Yes, I knew you were coming. Wait for a moment.” U Boon Shein waited humbly.
Ông Boon Shein đã tác bạch với Ngài Đại Trưởng Lão Webu “Kính bạch Ngài, con đã đến đây với một lời nhắn tin từ nơi Giáo Thọ Ba Khin.” Đại Trưởng
Lão đã ngước lên từ nơi bình bát của mình, đã liếc nhìn vào Ông Boon Shein, và nói “Vâng, vâng”, sau đó lại tiếp tục bữa thọ thực của mình. Khi Ông Boon Shein nhìn vào diện mạo của Đại Trưởng Lão, ông ta đã có cảm tưởng Đại Trưởng Lão như đã muốn nói “Vâng, Sư đã biết con đã đi đến. Hãy chờ một lát”. Và Ông Boon Shein đã chờ đợi một cách khiêm cung.
After finishing his meal, Venerable Webu Sayadaw glanced at U Boon Shein. “Have you come all the way from Yangon, lay disciple ?” he asked.
“That is correct, sir. I was sent by the great lay disciple U Ba Khin.” “The great lay disciple U Ba Khin ?”
“Yes, sir. He is the great disciple who came to Webu to pay respects to you before the war. That was in the month of Wagaung in 1302 (1941). Because of your instruction to him, he has been teaching meditation and spreading the Dhamma ever since. After the war, U Ba Khin became Accountant General of Burma and has settled down in Yangon. He teaches meditation to his subordinates in a meditation room in his office. There are also some foreigners who practise meditation under his guidance and who have become Buddhists.”
“It is delightful to hear that he is sharing the Dhamma he obtained through his unwavering effort in the practice,” Venerable Webu Sayadaw said.
“Yes, sir. He is the great disciple who came to Webu to pay respects to you before the war. That was in the month of Wagaung in 1302 (1941). Because of your instructions to him, he has been teaching meditation and spreading the Dhamma ever since. After the war, U Ba Khin became Accountant General of Burma and has settled down in Yangon. He teaches meditation to his subordinates in a meditation room in his office. There are also some foreigners who practise meditation under his guidance and who have become Buddhists.”
“It is delightful to hear that he is sharing the Dhamma he obtained through his unwavering effort in the practice.” Venerable Webu Sayadaw said.
“Yes, sir. Accountant General U Ba Khin founded the Vipassanà Research Association in 1951 together with some of his office workers. He has been studying their meditation experiences in a scientific manner. He has compiled a small booklet of his findings entitled The Basic Study of the Buddha’s Teachings and Their Correct Application, and he wishes to submit it to you for your approval. Thanks to your loving kindness and encouragement, he was able to found the Vipassanà Assocation on the new – moon day of Kason in 1951, and all the employees of the Accountant General’s Office were given permission to join. These office workers’ families also wanted to join, so the space in the shrine room at the office was to small. As a result, we bought a plot of land on Inya Myaing Road. A meditation centre was opened there on the new – moon day of Kason in 1952, and Sayagyi is teaching at the new centre. He has built a Dhamma Yaung Chi Ceti on a small hill at the centre, and his main concern now is teaching the Dhamma to foreigners.”
Sau khi chấm dứt bữa thọ thực của mình, Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã liếc nhìn vào Ông Boon Shein. Ngài đã vấn hỏi “Có phải con đã từ Yangon đi thẳng đến đây, nầy vị nam cư sĩ ?”
“Quả thật đúng như vậy đó, kính bạch Ngài. Con đã được gửi đến do bởi vị đại đệ tử cư sĩ Ông Ba Khin.”
“Vị đại đệ tử cư sĩ Ông Ba Khin ?”
“Dạ vâng, kính bạch Ngài. Ông ta là vị đại đệ tử, là người đã đến từ Webu để bầy tỏ lòng tôn kính đối với Ngài trước chiến tranh. Đó đã là vào tháng Tám trong năm 1302 (1941). Do sự dạy bảo của Ngài đến với ông ta, và kể từ dạo ấy, ông đã chỉ dạy về thiền định và truyền bá Giáo Pháp. Sau chiến tranh, Ông Ba Khin đã làm Kế Toán Trưởng của nước Miến Điện, và ông đã đến định cư tại Yangon. Ông chỉ dạy thiền định đến những thuộc hạ của mình trong một thiền trai ở trong văn phòng của mình. Cũng có một số người nuớc ngoài thực hành thiền định dưới sự hướng dẫn của ông ta và họ đã trở thành những Phật Tử.”
“Quả là hoan hỷ khi được biết rằng ông ta đã chia sẻ Giáo Pháp mà ông đã có được thông qua sự nỗ lực kiên cuờng của mình trong việc tu tập,” Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã nói.
“Dạ vâng, kính bạch Ngài. Kế Toán Trưởng Ba Khin đã thành lập Hiệp Hội Nghiên Cứu Thiền Minh Sát vào năm 1951 cùng với một số nhân viên văn phòng của mình. Ông đã nghiên cứu những kinh nghiệm thiền định của họ trong một phương thức thực nghiệm có hệ thống. Ông đã biên soạn một quyển sách nhỏ về những thâu nhặt của mình mang nhan đề Nghiên Cứu Cơ Bản và Sự Ứng Dụng Chính Xác về Phật Pháp, và ông muốn đệ trình nó đến với Ngài để cho sự chấp thuận của Ngài. Nhờ vào tấm lòng từ ái và sự khích lệ của Ngài, ông ta đã có đủ khả năng để thành lập Hiệp Hội Thiền Minh Sát vào ngày trăng tròn của Tháng Sáu trong năm 1951, và tất cả nhân viên của Văn Phòng Kế Toán Trưởng đã có được sự cho phép để tham gia. Những gia đình của các nhân viên văn phòng nầy cũng đã muốn được tham gia, như thế không gian ở trong điện thờ tại văn phòng
quả là quá nhỏ bé. Và kết quả là, chúng con đã mua một mảnh đất ở trên đường Inya Myaing. Một trung tâm thiền viện đã được sáng lập tại nơi đó vào ngày có trăng non của Tháng Sáu trong năm 1952, và Giáo Thọ đang giảng dạy ở tại Trung Tâm mới. Ông đã kiến tạo một Ánh Sáng Pháp Bảo Tự trên một ngọn đồi nhỏ ở tại Trung Tâm, và công việc chánh yếu của ông ta là hiện đang giảng dạy Giáo Pháp đến những người nước ngoài.
Venerable Webu Sayadaw looked at U Boon Shein with loving kindness as he gave this explanation without asking any questions. Then U Boon Shein conveyed Sayagyi U Ba Khin’s message. “There is a pagoda at the centre now,” he said, “with eight meditation cells. We have also built living quarters for you to live in and a Dhamma Hall. Sayagyi has sent me to you to humbly request that out of compassion for us you travel to Yangon to bless the Dhamma Yaung Chi Ceti, which was built about a year ago.”
Khi Ông Boon Shein đã đưa ra lời giải thích nầy, Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã chú mục vào ông ta, với tấm lòng từ ái mà chẳng có lời vấn hỏi bất luận câu hỏi nào. Sau đó Ông Boon Shein đã chuyển đạt lời nhắn tin của Giáo Thọ Ba Khin. Ông đã nói “Hiện tại có một ngôi chùa với tám thiền trai ở tại Trung Tâm. Chúng con cũng đã xây dựng khu nhà ở để cho Ngài lưu trú ở nơi đó và một Giảng Đường. Giáo Thọ đã sai bảo con đến với Ngài để trí kính lễ thỉnh cầu vì lòng bi mẫn cho chúng con mà Ngài du hành đến Yangon để chúc phúc cho Ánh Sáng Pháp Bảo Tự, mà nó đã được kiến tạo khoảng một năm trước đây.”
The two attendants and the ladies looked at U Boon Shein and the Sayadaw doubtfully when he said this, but U Boon Shein continued, “I have a special message from Sayagyi U Ba Khin to convey to you, sir: The people of Kyauksai, Shwebo, and Khin U are able to pay respects to the qualities of Sìla, Samàdhi, and Pannà as embodied by the Venerable Sayadaw, but there are many people in other parts of Burma who cannot easily obtain an opportunity to pay respects to the Sayadaw. Your Pàramis are very powerful and your ability to teach is very great. The places where people have received this Teaching from you are very few. Venerable Sir, the great disciple U Ba Khin requests that you leave your monasteries and that, with your great loving kindness (Mettà) and compassion (Karunà), you tour the country in order to dispense the cooling Dhamma to all the people of Burma. He says that now is a good time for the Sayadaw to do so.”
U Boon Shein had finished his short speech. He wiped the sweat from his brow with his handkerchief and waited for the Sayadaw’s reply. Everyone in the little bamboo hut was silent.
Hai vị thị giả và những người phụ nữ đã chú mục vào Ông Boon Shein và Đại Trưởng Lão một cách nghi ngại khi nghe ông ta đã nói sự việc nầy, tuy nhiên Ông Boon Shein vẫn tiếp tục, “Kính bạch Ngài, con có một lời nhắn tin đặc biệt từ nơi Giáo Thọ Ba Khin đệ trình đến Ngài: Những cư dân ở Kyauksai, Shwebo và Khin U thì có thể bầy tỏ lòng tôn kính đến những phẩm chất cao quý về Giới, Định và Tuệ tựa như đã thể hiện đến Ngài Đại Trưởng Lão, tuy nhiên có rất nhiều người ở những nơi khác của đất nước Miến Điện, họ không thể dễ dàng có được một cơ hội để bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão. Pháp Toàn Thiện của Ngài thì rất dũng mạnh và năng lực giảng dạy của Ngài thì quả là vĩ đại. Ở những nơi mà những cư dân đã được đón nhận việc Giảng Dạy nầy từ nơi Ngài thì quả là rất ít oi. Kính bạch Ngài Tôn Kính, vị đại đệ tử Ba Khin thỉnh cầu mong sao Ngài rời khỏi những Tu Viện của Ngài và rằng, với tấm lòng lân ái (Từ Ái) và mẫn cảm (Bi Mẫn) to lớn của Ngài, xin Ngài du hành vòng quanh đất nước để mà ban phát Pháp Từ đến tất cả mọi người dân nước Miến Điện. Ông ta nói rằng hiện giờ quả là thời điểm thích hợp cho Đại Trưởng Lão để thực hiện như vậy.”
Ông Boon Shein đã kết thúc lời phát biểu ngắn gọn của mình. Ông ta đã lau mồ hôi ở trên trán của mình với chiếc khăn tay của ông ta và đã chờ đợi sự trả lời của Đại Trưởng Lão. Tất cả mọi người ở trong túp lều tranh nhỏ bé đã im lặng.
“When do you want us to come to Yangon ?” the Sayadaw’s voice broke the silence.
“Whenever you wish, sir,” U Boon Shein answered with a trembling voice. “Well, I don’t think we can leave tomorrow,” Venerable Webu Sayadaw said, “so it will have to be day after tomorrow. Does it suit you if we come day after tomorrow?”
U Boon Shein was so happy he could hardly speak, “It … it is suitable, sir,” he said. “I’ll inform Yangon immediately so that everything can be made ready.”
“Khi nào ông muốn chúng tôi đi đến Yangon ?” thanh âm của Đại Trưởng Lão đã phá vỡ sự im lặng.
“Kính bạch Ngài, vào bất cứ lúc nào Ngài muốn,” Ông Boon Shein đã trả lời với một thanh âm run rẩy.
“Tốt lắm, Sư không nghĩ rằng chúng ta có thể ra đi vào ngày mai được,” Ngài Đại Trưởng Lão đã trả lời, “như thế nó sẽ phải là vào ngày mốt. Điều đó có thích hợp với ông nếu chúng ta đi đến vào ngày mốt hay không ?”
Ông Boon Shein đã quá đỗi mừng vui nên ông không thể nói được, “Điều đó… kính bạch Ngài, điều đó thích hợp ạ,” ông đã trả lời, “Con sẽ thông báo cho Yangon ngay tức thì để cho tất cả mọi sự việc có thể chuẩn bị sẳn sàng.”
The Sayadaw sent Bo Tun to fetch two monks, U Nàna and U Sumana. When they arrived, he said, “We are going to Yangon to instruct the disciples there. Arrange everything for the journey with his lay disciple. We will go with six monks and two attendants.”
Đại Trưởng Lão đã phái Bo Tun đi tìm hai vị tu sĩ về, Sư Nàna và Sư Sumana. Khi họ đã đi đến, Ngài đã nói, “Chúng ta sẽ đi đến Yangon để chỉ dạy những môn đệ ở nơi đó. Hãy sắp xếp tất cả mọi thứ cho cuộc hành trình với người đệ tử cư sĩ của ông ta. Chúng ta sẽ đi với sáu vị tu sĩ và hai thị giả.”
The two monks were so surprised they could scarcely believe their ears. They went outside and asked U Boon Shein to explain. Then they conferred on the arrangements for the trip to Yangon. The date was Friday, July 3rd, 1953. They agreed that the trip would be made by plane on Sunday, July 5th. U Boon Shein went back into the Sayadaw’s hut to pay respects and to inform him of the arrangements.
Hai vị tu sĩ đã rất đỗi ngạc nhiên họ hầu như không tin vào đôi tai của mình. Họ đã đi ra ngoài và đã yêu cầu Ông Boon Shein để được giải thích. Sau đó, họ đã bàn bạc về những việc sắp xếp cho chuyến đi đến Yangon. Ngày tháng đã là Thứ Sáu, ngày 3 tháng 7, năm 1953. Họ đã đồng ý rằng chuyến đi sẽ được thực hiện bằng máy bay vào ngày Chủ Nhật, ngày 5 tháng 7. Ông Boon Shein đã quay trở lại đi vào trong túp lều của Đại Trưởng Lão để bầy tỏ lòng tôn kính và đệ trình lên Ngài về những việc sắp xếp.
“The Sayadaw and his disciples will travel by plane to Yangon on Sunday,” he said. “Please inform your disciple of any special requirements for your stay in Yangon.”
“Just ask the great disciple in Yangon to provide toilet facilities in accordance with the Vinaya rules for the monks,” Venerable Webu Sayadaw said. “There’s nothing else we need.”
“Đại Trưởng Lão và những đệ tử của Ngài sẽ du hành bằng máy bay để đến Yangon vào ngày Chủ Nhật,” ông ta đã nói. “Xin vui lòng thông báo cho đệ tử của Ngài về bất luận những yêu cầu đặc biệt nào cho việc lưu trú của Ngài ở tại Yangon.”
“Chỉ yêu cầu vị đại đệ tử ở tại Yangon cung cấp những phương tiện thuận lợi về vệ sinh theo đúng với những Giới Luật của những vị tu sĩ,” Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã nói. “Không có gì khác hơn quý Sư yêu cầu”.
U Boon Shein went back to Mandalay and headed straight for the telephone exchange in order to call Yangon. As the Accountant General’s Office was one of the most important government departments, U Boon Shein was able to speak to Sayagyi and convey the good news to him in no time. He then went to his friend’s office to tell him what had happened. His friend was very surprised. U Boon Shein waited in his friend’s office to hear from Sayagyi. Within an hour, he was told that everything had been arranged. Tickets had been bought and places booked on the plane for the monks, the lay disciples, and U Boon Shein. They would be leaving Mandalay on Sunday at noon, arriving in Yangon at 2:30 P.M. They would be met at the airport.
Ông Boon Shein đã về lại thành phố Mandalay và đã hướng thẳng đến tổng đài điện thoại để gọi về Yangon. Vì lẽ Văn Phòng của Kế Toán Trưởng đã là một trong những cơ quan chính phủ quan trọng nhất, Ông Boon Shein mới có khả năng để nói chuyện với Giáo Thọ và truyền đạt những tin tức tốt đẹp đến ông ta chỉ trong nháy mắt. Sau đó, ông đã đi đến văn phòng của bạn mình để nói với anh ấy về những gì đã xảy ra. Người bạn của ông ta quả là rất đỗi ngạc nhiên. Ông Boon Shein đã chờ đợi ở trong văn phòng của bạn mình để được nghe từ nơi Giáo Thọ. Trong vòng một giờ đồng hồ, ông đã được cho biết rằng tất cả mọi thứ đã được sắp xếp. Những vé máy bay đã được mua và những chỗ ngồi đã được đặt trước trên máy bay cho những vị tu sĩ, những đệ tử cư sĩ, và Ông Boon Shein. Họ sẽ rời khỏi thành phố Mandalay vào buổi trưa ngày Chủ Nhật, sẽ đến nơi Yangon vào lúc 2:30 PM. Họ sẽ được đón tiếp ở tại phi trường.
At the International Meditation Centre in Yangon, preperations for the Sayadaw and his followers were quickly made: their living quarters, robes, the toilet facilities, etc. Venerable Webu Sayadaw was brought to the Centre from the airport in a large car. The people who were there to welcome him took their places on either side of the flight of steps leading to the pagoda and on the pagoda platform. When the car stopped at the bottom of the steps, Sayagyi opened the door himself. After he got out of the car, Venerable Webu Sayadaw looked up at the pagoda, which had recently been gilded and crowned with its hri (parasol). It was shining and sparkling in the sunlight. The Sayadaw stopped at the foot of the steps and raised his hands towards the pagoda in veneration. Only after doing this did he slowly proceed up the steps towards the pagoda platform.
Tại Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế ở nơi Yangon, những việc sửa soạn trước cho Đại Trưởng Lão và những môn đệ của Ngài đã được thực hiện một cách mau lẹ: những khu nhà ở của họ, những y áo, những phương tiện thuận lợi về vệ sinh, v.v.
Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã được đưa đến Trung Tâm từ nơi phi trường trong một chiếc xe rộng lớn. Những người đã đến nơi đó để nghênh đón Ngài đã chiếm lấy những vị trí ở cả hai bên của máy bay, ở những bước duỗi dài theo dẫn đến chùa và ở trên bậc thềm của ngôi chùa. Khi chiếc xe đã dừng lại ở ngay tại bậc thang cuối cùng, Giáo Thọ đã đích thân mở cửa ra. Sau khi Ngài đã ra khỏi chiếc xe, Đại Trưởng Lão Webu đã ngước lên nhìn vào ngôi chùa, nó vừa mới được sơn phết vàng và đã được bao quanh với những hri (cây lọng). Nó đang chói sáng và đang lấp lánh trong ánh sáng mặt trời. Đại Trưởng Lão đã dừng lại ở ngay chân của những bậc thang và đã đưa đôi tay của mình lên hướng về chùa trong sự tôn kính. Chỉ sau khi đã làm xong điều nầy, Ngài đã từ từ đi tiếp bước lên những bậc thang hướng về bậc thềm của chùa.
When they arrived at the pagoda platform, Sayagyi raised his joined hands in reverence and indicated the way. They circumambulated the pagoda three times, keeping it to their right, then Sayagyi invited the Sayadaw to enter the pagoda through the north cell. The Sayadaw enetered the central room (*). Sayagyi U Ba Khin’s disciples were seated in the cells around the central room and all around the pagoda outside, and they raised their joined hands in respect to the Sayadaw. They paid their respects, fixing their minds on the Dhamma.
[(*): Venerable Webu Sayadaw sat facing the Shwedagon Pagoda as it could seen through the southern door when it was left open. A marble statue of the Buddha was installed in the southern cell a year later.]
Khi họ đã đi đến tại bậc thềm của chùa, Giáo Thọ đã chắp hai tay đưa lên trong sự tôn kính và đã hướng dẫn lối đi. Giữ từ phía bên phải của mình, họ đã đi nhiễu vòng quanh ngôi chùa ba lần, sau đó Giáo Thọ đã thỉnh mời Đại Trưởng Lão đi vào trong chùa xuyên qua căn thiền trai ở hướng bắc. Đại Trưởng Lão đã đi vào trong ngôi Chánh Điện (*). Những môn đệ của Giáo Thọ Ba Khin đã ngồi trong những thiền trai chung quanh ngôi Chánh Điện và ở tất cả chung quanh bên ngoài của ngôi chùa, và họ đã chắp hai tay đưa lên trong sự tôn kính đối với Đại Trưởng Lão. Họ đã bầy tỏ lòng tôn kính của họ, và đang tu sửa tâm thức của mình ở trong Giáo Pháp.
[(*): Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã ngồi hướng mặt về ngôi chùa Shwedagon vì nó có thể được nhìn thấy thông qua cánh cửa ở hướng nam khi nó đã được bỏ ngỏ. Một bức tượng bằng đá cẩm thạch của Đức Phật đã được tôn trí ở trong căn thiền trai phía nam một năm vừa qua.]
Sayagyi then said, “This Dhamma Yaung Chi Ceti is a place where the three Noble Gems of the Buddha, the Dhamma and the Sangha can be workshipped and our debt of gratitude to them can be repaid. It is a place that we have established in order that it can be the centre of our teaching of the Paths and the Fruition States to the world, making the qualities of Sìla, Samàdhi and Pannà the basis of our teaching. Venerable Webu Sayadaw has made the journey here to give us the necessary strength and protection and to instruct us. After we take the precepts (Sìla) from him, we will fix our minds on the aspects of the Dhamma we have realized, we will pay respects to the Buddha, to Venerable Webu Sayadaw, and to the monks accompanying him. May Sakka, the King of the Devas, the Four Guardians of the World, and all the great Deva princes descend on this place ! May they join us in the highest meritorious deed of paying respects to the Buddha, the Dhamma, and the Sangha, and may they protect us !’
Everyone then took the triple refuge and the moral precepts from Venerable Webu Sayadaw, and this was followed by everyone paying their respects by meditating for five minutes.
Thế rồi Giáo Thọ đã nói, “Ánh Sáng Pháp Bảo Tự nầy đây, là một nơi mà ba Thánh Bảo của Phật, Pháp và Tăng có thể được tôn trí phụng thờ và món nợ của chúng ta về lòng tri ân đến Tam Bảo có thể được đáp đền. Đó là một nơi mà chúng ta đã thiết lập để mà nó có thể là trung tâm của việc giảng dạy của chúng ta về những Tầng Đạo và Quả đến với thế gian, kiến tạo những phẩm chất về Giới, Định và Tuệ nền tảng của việc giảng dạy của chúng ta. Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã thực hiện chuyến du hành đến đây để truyền trao cho chúng ta sức mạnh và sự bảo hộ nhu yếu và để hướng dẫn chúng ta. Sau khi chúng ta thọ trì những điều giới học (Giới Luật) từ nơi Ngài, chúng ta sẽ tu sửa tâm thức của chúng ta trên các khía cạnh của Giáo Pháp chúng ta đã liễu tri, chúng ta sẽ bầy tỏ lòng tôn kính đến Đức Phật, đến Ngài Đại Trưởng Lão Webu, và đến các vị tu sĩ đang tháp tùng với Ngài. Cầu xin Ngài Đế Thích, Thiên Chủ của Chúng Thiên, bốn Ngài Bảo Hộ của Thế Gian, và tất cả những vị Đại Thái Tử của Chư Thiên ngự xuống ở nơi đây ! Cầu xin quý Ngài cùng hiệp lực với chúng ta trong thiện công đức thù thắng qua việc bầy tỏ lòng tôn kính đến Đức Phật, đến Pháp Bảo, và đến Tăng Bảo, và cầu xin quý Ngài bảo hộ chúng ta !”
Sau đó mọi người đã thọ trì Tam Quy và những điều giới đức từ nơi Ngài Đại Trưởng Lão Webu, và sự việc nầy được tiếp nối theo bởi mọi người đang bầy tỏ lòng tôn kính của mình bằng cách hành thiền trong năm phút.
Sayagyi gave a talk, relating how he had first met and paid respects to Venerable Webu Sayadaw in 1941. He said he had started to teach after Webu Sayadaw urged him to do so. Sayagyi spoke of how he had founded the Accountant General’s Vipassanà Research Association and of how he taught meditation to the office staff and to foreigners, who had become Buddhists through this. The site on Inya Myaing Road had been acquired after the Association was well established and the Dhamma Yaung Chi Ceti was built there. The International Meditation Centre was founded at this location in order to spread the Buddha – Dhamma throughout the world. As Sayagyi spoke, Venerable Webu Sayadaw’s face was lit by a smile. It was obvious from his expression that he was happy with what he heard.
Giáo Thọ đã gửi trao một cuộc nói chuyện, về mối liên hệ làm thế nào ông đã được diện kiến lần đầu tiên và đã bầy tỏ lòng tôn kính đến Ngài Đại Trưởng Lão Webu vào năm 1941. Ông đã nói ông đã bắt đầu giảng dạy sau khi Đại Trưởng Lão Webu đã khuyến khích ông ta để làm như vậy.
Giáo Thọ đã nói đến làm thế nào ông đã thành lập Hiệp Hội Nghiên Cứu Thiền Minh Sát thuộc Kế Toán Trưởng và làm thế nào ông đã giảng dạy thiền định đến các nhân viên văn phòng và đến những người nước ngoài, là những người đã trở thành những Phật Tử thông qua sự việc nầy. Địa điểm tọa lạc trên đường Inya Myaing đã được mua sau khi Hiệp Hội đã được thành lập và Ánh Sáng Pháp Bảo Tự đã được xây dựng tại nơi đó. Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế đã được kiến tạo ở tại địa điểm nầy nhằm để xiển dương Phật Pháp khắp cả toàn thế giới.
Khi Giáo Thọ đã phát biểu, diện mạo của Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã rạng rỡ lên bởi một nụ cười. Điều đó quả là hiển nhiên từ nơi sự diễn cảm của mình, như thế Ngài đã duyệt ý với những gì Ngài đã nghe.
Sayagyi continued, repeating the message he had given to U Boon Shein to take to the Sayadaw in Kyauksai. He explained to Webu Sayadaw that lay people were giving their support to the study of the Buddha’s Teachings (Pariyatti – Sàsana) by providing the four requisites for the monks, who preserve the texts, and by arranging exams on the Pàli texts. He spoke of the strenuous efforts being made to establish Vipassanà meditation centres so that the study of the Buddha’s Teachings and the practice of the Buddha’s Teachings (Pariyatti – Sàsana) could grow. The government wanted to support the Sàsana by convening the Sixth Buddhist Council.
Giáo Thọ đã tiếp tục, với việc nhắc lại lời nhắn tin mà ông đã trao cho Ông Boon Shein để cầm đến với Đại Trưởng Lão tại Kyauksai. Ông đã giải thích với Đại Trưởng Lão Webu rằng các vị cư sĩ đã dốc sức lực vào việc hỗ trợ của mình cho việc nghiên cứu về Phật Pháp (Pháp Học – những điều lệ về Thánh Điển) qua việc cung cấp những tứ vật dụng đến các vị tu sĩ, là những người bảo tồn các văn bản, và qua việc bố trí những cuộc khảo thí trên các văn bản Pàli. Ông đã nói đến những nỗ lực kiên cường đã được thực hiện để thành lập Trung Tâm Thiền Viện Thiền Minh Sát để cho việc nghiên cứu về Phật Pháp và việc thực hành về Phật Pháp (Pháp Học – những điều lệ về Thánh Điển) có thể được phát triển. Chánh phủ đã muốn ủng hộ Giáo Hội qua việc triệu tập Hội Nghị Kiết Tập Phật Giáo lần thứ sáu.
Sayagyi then said that the power of Venerable Webu Sayadaw’s Sìla, Samàdhi and Pannà was very great and that the Sayadaw would be of great importance in strengthening the Sàsana. Up until then, however, only the people in Kyauksai, Shwebo, and Khin U had been able to benefit from the Sayadaw’s uplifting loving kindness (Mettà). Throughout Myanmar, Sayagyi said, there were many beings who possessed the perfections (Pàramìs) and the Sayadaw should look on them with his great compassion, for the time had come for those who were practising the Buddha’s Teachings to become well established in them. He requested the Sayadaw to teach the Dhamma and to spread the Dhamma from the Dhamma Yaung Chi Ceti during this auspicious period.
Thế rồi, Giáo Thọ đã nói rằng năng lực về Giới, Định và Tuệ của Ngài Đại Trưởng Lão Webu quả rất là vĩ đại và rằng Đại Trưởng Lão sẽ rất là quan trọng trong việc cũng cố Giáo Hội. Mãi cho đến bấy giờ, mặc dù vậy, chỉ có những cư dân ở tại Kyauksai, Shwebo, và Khin U đã có thể hưởng được phúc lợi từ tấm lòng lân ái (Từ Ái) nâng đỡ của Đại Trưởng Lão. Khắp cả đất nước Miến Điện, Giáo Thọ đã nói, có rất nhiều chúng hữu tình, là những người đã có được sở hữu các Pháp Toàn Thiện (Pháp Độ – Ba La Mật) và Đại Trưởng Lão nên nhìn vào họ một cách đặc biệt với tấm lòng bi mẫn to lớn của mình, để cho thời gian đã đến đối với những người đó, là những người đã thực hành Phật Pháp được thiết lập tốt đẹp ở trong họ. Ông đã yêu cầu Đại Trưởng Lão giảng dạy Giáo Pháp và xiển dương Giáo Pháp từ nơi Ánh Sáng Pháp Bảo Tự trong giai đoạn kiết tường nầy.
After Sayagyi finished, Venerable Webu Sayadaw said, “The practice of the Great Teacher’s Teachings leads to the appeasing of suffering. You all know this for yourselves. It is very noble to pass one’s own Dhamma on to others. This is the noblest gift of all. You know the gratitude you owe to the Buddha. You practise the Dhamma. This practice is the highest practice. You are all doing noble wotk in an auspicious place. As a result, you will obtain great benefits. The results of your efforts will be in accordance with the strength of your Pàrami. Establish yourselves through the power of effort and continue to practise according to the Buddha’s instructions. In this way you will attain everything that should be attained. We came here in answer to your invitation so that we would not be lacking in repaying our debt to the Buddha, so that we could pay back the debt of gratitude we have to the Buddha. In olden days, those who were wise also worked in this way, being constantly mindful, and they attained their goal. In the same way, Noble Ones today succeed through establishing effort and working hard.” All those present were delighted and said, “Sàdhu, sàdhu, sàdhu,” with great devotion and joyful voices.
Sau khi Giáo Thọ đã chấm dứt, Ngài Đại Trưởng Lão đã nói, “Việc thực hành những Giáo Lý của bậc Đại Sư dẫn đến sự xoa dịu về những khổ đau. Chính tất cả quý vị tự liễu tri được điều nầy. Quả thật vô cùng cao quý cho một người thừa tự được Giáo Pháp lại đem truyền trao đến cho những người khác. Đây là một tặng phẩm thù thắng hơn tất cả. Quý vị liễu tri được lòng tri ân quý vị thọ lãnh từ nơi Đức Phật. Quý vị thực hành theo Giáo Pháp. Việc thực hành nầy là việc thực hành tối thượng. Tất cả quý vị đang làm công việc cao quý tại một nơi kiết tường. Và kết quả là, quý vị sẽ gặt hái được những phúc lợi thù thắng. Thành quả của những sự nỗ lực của quý vị sẽ phù hợp với các năng lực của Pháp Toàn Thiện của quý vị. Tự ổn định cuộc sống của quý vị thông qua sức mạnh của sự nỗ lực và tiếp tục thực hành nương theo những sự chỉ dạy của Đức Phật. Bằng với phương thức nầy, quý vị sẽ đạt được tất cả những gì cần đạt được. Chúng tôi đã quan lâm đến đây để đáp lại lời thỉnh mời của quý vị, để cho chúng tôi không thể bị thiếu sót trong việc đáp đền món nợ của chúng tôi đối với Đức Phật, để cho chúng tôi có thể báo đáp lại món nợ về lòng tri ân mà chúng tôi có với Đức Phật. Trong những ngày cổ xưa, với các bậc trí tuệ họ cũng đã làm bằng với phương thức nầy, hằng luôn giữ chánh niệm, và họ đã đạt được mục đích của họ. Trong cùng một phương thức, các bậc Thánh Nhân ngày nay đã thành tựu thông qua việc thiết lập sự nỗ lực và việc làm gian khổ.”
Tất cả những người hiện diện nơi đó đã hoan hỷ vui thích và đã thốt lên, “Lành thay, lành thay, lành thay”, với những thanh âm hân hoan duyệt ý và lòng kỉnh mộ tuyệt vời.
Afterwards, Webu Sayadaw was taken to his quarters in a building that had been set up as a temporary monastery, and all the monks with him were given their own accommodation. At six o’clock in the evening, cold drinks were offered to the Sayadaw and the monks, and after that, the Sayadaw gave a talk to the people who had come from Yangon to pay respects. It was only the following day that a multitude of visitors from all over the city came to the centre. The visitors included former President Saw Shwe Thaik, judges, and government ministers. They all brought offerings of food, robes, and other requisites. Venerable Webu Sayadaw gave three discourses each day to the people who came to pay respects.
Sau đó, Đại Trưởng Lão Webu đã đón nhận những chỗ ở của mình trong một tòa nhà mà đã được tạo lập như một tu viện tạm thời, và tất cả các vị tu sĩ cùng với Ngài đã được cung cấp những chỗ ngủ nghỉ tiện nghi cho họ. Vào lúc sáu giờ chiều, các thức uống lạnh đã được cúng dường đến Đại Trưởng Lão và các vị tu sĩ, và sau đó, Đại Trưởng Lão đã ban bố một buổi nói chuyện đến những người đã đến từ nơi Yangon để bầy tỏ lòng tôn kính. Và chỉ vào ngày hôm sau mà vô số những khách viếng thăm từ khắp cả thành phố đã đến nơi trung tâm. Những khách viếng nầy đã bao gồm cựu Tổng Thống Saw Shwe Thaik, các vị thẩm phán, và các vị bộ trưởng chính phủ. Tất cả những họ đã mang đến những vật lễ cúng dường về vật thực, các y áo, và những vật dụng cần thiết khác. Mỗi ngày Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã ban bố ba bài Pháp Thoại cho đến những người đã đi đến để bầy tỏ lòng tôn kính.
At that time, there were also meditation students at the centre. Sayagyi looked after them and made sure that they received the Teachings. Venerable Webu Sayadaw had his monks meditate in the cells in the pagoda, and he himself meditated in the central room every morning and evening, filling the pagoda with Bodhi – dhàtu, Dhamma – dhàtu, and Nibbàna – dhàtu.
Vào thời gian đó, cũng có những thiền sinh ở tại trung tâm. Giáo Thọ đã trông nom họ và đã bảo đảm chắc chắn rằng họ đã đón nhận được những Giáo Lý. Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã có các vị tu sĩ của Ngài hành thiền trong những thiền trai ở trong chùa, và chính bản thân Ngài đã hành thiền ở tại Chánh Điện vào mỗi buổi sáng và buổi chiều, vun bồi ngôi chùa với Giác Tố Chất, Pháp Tố Chất và Níp Bàn Tố Chất.
In this way, the people of Yangon were able to pay respects to and receive the Teachings from Webu Sayadaw for seven days. They had this opportunity thanks to Sayagyi’s concern, loving kindness, and foresight, and thanks to the efforts of the members of the Vipassanà Association. So the people of Yangon are greatly indebted to them for this. After the seven days were over, Venerable Webu Sayadaw and the monks accompanying him returned to Kyauksai by train, taking with them the many gifts offered in Yangon.
Bằng phương thức nầy, những cư dân ở tại Yangon đã có thể bầy tỏ lòng tôn kính và đón nhận những Giáo Lý từ nơi Đại Trưởng Lão Webu trong bảy ngày.
Họ đã có cơ hội nầy nhờ vào mối quan tâm của Giáo Thọ, tấm lòng lân ái, và tầm nhìn xa, và nhờ vào những nỗ lực của các thành viên của Hiệp Hội Thiền Minh Sát. Như thế, những cư dân ở Yangon đã mang trọng ân đối với họ cho việc nầy.
Sau bảy ngày đã qua đi, Ngài Đại Trưởng Lão Webu và các vị tu sĩ tháp tùng theo Ngài đã trở về lại Kyauksai bằng xe lửa, mang theo với họ rất nhiều tặng phẩm đã được cúng dường ở tại Yangon.
When people heard that Venerable Webu Sayadaw had visited the International Meditation Centre, they wanted to have him come to their own villages, towns, and regions. In Yangon, former President Saw Shwe Thaik formed an association that was to organize the Sayadaw’s visits to the capital. They invited him to come in May 1954. While staying at the association’s temporary monastery, Venerable Webu Sayadaw went to International Meditation Centre (M.I.C.) on May 1st and meditated with Sayagyi and his disciples in the Dhamma Yaung Chi Ceti. That afternoon, he gave them a talk in the centre’s Dhamma Hall at five o’clock, and they made suitable offerings to him at that time.
Khi người dân được nghe rằng Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã có viếng thăm Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế, họ đã ước muốn có được Ngài đi đến những thôn làng của riêng họ, các thị trấn, và những khu vực. Tại Yangon, cựu Tổng Thống Saw Shwe Thaik đã thành lập một hiệp hội, đó đã là để sắp đặt cho các cuộc viếng thăm của Đại Trưởng Lão đến thủ đô. Họ đã thỉnh mời Ngài quan lâm vào Tháng Năm năm 1954. Trong thời gian lưu trú ở tại tu viện tạm thời của hiệp hội, Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã đi đến Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế (M.I.C.) vào ngày Một Tháng Năm và đã hành thiền với Giáo Thọ cùng với các môn đệ của ông ta ở tại Ánh Sáng Pháp Bảo Tự. Sau buổi trưa hôm đó, Ngài đã ban bố cho họ một buổi nói chuyện ở tại Giảng Đường của Trung Tâm vào lúc năm giờ, và họ đã thực hiện các lễ vật cúng dường thích hợp đến Ngài tại thời điểm đó.
After that, Venerable Webu Sayadaw came to Yangon each year at the association’s invitation. He visited International Meditation Centre again on May 10th,1955; February 21st ,1957; and April 5th , 1958. On each of these visits he meditated with Sayagyi and his disciples in the Dhamma Yaung Chi Ceti and then gave a talk in the Dhamma Hall. The members of the Vipassanà Association always made an offering of robes and the other requisites for monks.
Sau sự việc đó, Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã quan lâm đến Yangon vào mỗi năm thể theo lời thỉnh mời của hiệp hội. Ngài đã viếng thăm Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế lần nữa vào ngày 10 Tháng Năm năm 1955, ngày 21 Tháng Hai năm 1957, và ngày 5 Tháng Tư năm 1958. Trong mỗi lần của các chuyến viếng thăm nầy, Ngài đã hành thiền với Giáo Thọ và các môn đệ của ông ta ở tại Ánh Sáng Pháp Bảo Tự và sau đó đã ban bố một buổi nói chuyện ở tại Giảng Đường. Các thành viên của Hiệp Hội Thiền Minh Sát đã thường luôn thực hiện một lễ vật cúng dường về những y áo, và những vật dụng cần thiết khác cho các vị tu sĩ.
In 1960, seven years after the sayadaw’s first visit to International Meditation Centre, Sayagyi sent him the following letter: The Vipassanà Association Office of the Accountant General Yangon, Myanmar (The 15th day of the new moon of Natdaw, 1321 / December 14th, 1959) Maung Ba Khin respectfully addresses Venerable Webu Sayadaw! Since the month of Wagaung 1302 [August 1940], when your disciple first met the Venerable Sayadaw while on a tour in the service of the Railways Accounts Department, your disciple has undertaken many tasks and duties in the service of the Sàsana, following the Venerable Sayadaw’s admonition. The Venerable Sayadaw has seen for himself the Dhamma Yaung Chi Ceti and the success of our work at our meditation centre. He has seen the many foreigners from all over the world who have been given the Dhamma by his disciple.
Vào năm 1960, bảy năm sau chuyến viếng thăm lần đầu tiên của Đại Trưởng Lão tại Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế, Giáo Thọ đã gửi cho Ngài lá thư sau đây:
Hiệp Hội Thiền Minh Sát
Văn Phòng của Kế Toán Trưởng Yangon, Miến Điện
(Ngày thứ 15 thời trăng non của Tháng Mười Hai, năm 1321 / ngày 14 Tháng Mười Hai, năm 1959)
Môn đệ Ba Khin một cách cung kỉnh thưa Ngài Đại Trưởng Lão Webu!
Kể từ tháng Tám năm 1302 [Tháng Tám năm 1940], khi người môn đệ của Ngài lần đầu tiên đã diện kiến Ngài Đại Trưởng Lão trong một chuyến công du phục vụ cho Phòng Kế Toán Bộ Hỏa Xa, người môn đệ của Ngài đã đảm nhận rất nhiều bổn phận và nghĩa vụ trong việc phụng sự Giáo Hội, thể theo lời khuyên bảo của Ngài Đại Trưởng Lão. Chính tự nơi Ngài Đại Trưởng Lão đã nhìn thấy Ánh Sáng Pháp Bảo Tự và sự thành tựu về những việc làm của chúng con ở tại trung tâm thiền viện của mình. Ngài đã nhìn thấy nhiều người nước ngoài từ khắp mọi nơi trên thế giới, họ là những người đã được truyền trao Giáo Pháp do bởi người môn đệ của Ngài.
In 1315 (June 1953), the Venerable Sayadaw came to the meditation centre in Inya Myaing Road and resided there for exactly seven days. During that time, the Sayadaw gave the cooling medicine of the deathless. The Sayadaw will also remember that, having sown very special seeds for the Sàsana, he began to actively spread the Teachings.
Vào năm 1315 (Tháng Sáu năm 1953), Ngài Đại Trưởng Lão đã quan lâm đến trung tâm thiền viện ở trên đường Inya Myaing và một cách chính xác là đã lưu trú ở nơi đó bảy ngày. Trong thời gian đó, Đại Trưởng Lão đã ban tặng phương lương diệu dược của sự bất tử. Ngài cũng sẽ ghi nhớ rằng, đã gieo hạt chủng tử đặc biệt cho Giáo Hội, Ngài đã khởi sự một cách tích cực xiển dương những Giáo Lý.
Since that time, over six years ago, the Venerable Sayadaw has travelled to many places all over Myanmar and has benefited beings beyond measure. Your disciples can also say that their work has progressed satisfactorily. As we are entering the seventh year since the Venerable Sayadaw first visited us, your disciple requests that you honour the International Meditation Centre with your presence together with your Sangha for a period of ten days for the benefit and development of the Sàsana, for the benefit and development of beings, and in order to bring inspiration. If the Sayadaw wishes to come, everything will be according to the Sayadaw’s wishes.
Kể từ thời gian đó, hơn sáu năm qua, Ngài Đại Trưởng Lão đã du hành đến nhiều nơi khắp cả đất nước Miến Điện và đã ban phát phúc lợi chúng sanh không thể đo lường. Các môn đệ của Ngài cũng có thể nói rằng việc làm của họ đã được tiến triển một cách hài lòng.
Vì chúng con đang bước vào năm thứ bảy kể từ Ngài Đại Trưởng Lão lần đầu tiên đã viếng thăm chúng con, người môn đệ của Ngài thỉnh cầu với sự hiện diện của Ngài cùng với Tăng Đoàn của Ngài trong thời gian là muời ngày, là điều vinh dự cho Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế, nhằm để cho phúc lợi và sự phát triển của Giáo Hội, nhằm để cho phúc lợi và sự phát triển của chúng hữu tình, và nhằm để mang lại nguồn cảm hứng. Nếu Đại Trưởng Lão có ước muốn quan lâm, mọi sự việc sẽ là thuận theo những ước muốn của Đại Trưởng Lão.
The Sayadaw’s disciples, who are full of hope, respectfully request the Sayadaw to come to I.M.C. for ten days, for the meditation centre is very dear to the Sayadaw, who, out of great compassion and great loving kindness, strives to make the Sàsana continue to grow. If he should come, the disciples under his protection and guidance, both monks and lay people, will have an opportunity to savour the extraordinary taste of the Dhamma (Dhamma – rasa). Therefore, your disciples earnestly and humbly request the Sayadaw to favour us with his visit. Maung Ba Khin – The International Meditation Centre Inya Myaung Road, Yangon.
Những môn đệ của Đại Trưởng Lão, là những người tràn đầy niềm hy vọng, một cách cung kỉnh thỉnh cầu Đại Trưởng Lão quan lâm đến Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế trong mười ngày, để cho trung tâm thiền viện được gần gũi thân thương với Đại Trưởng Lão, là bậc, do bởi tấm lòng mẩn cảm to lớn và tấm lòng lân ái vô lượng, nỗ lực để làm cho Giáo Hội tiếp tục tăng trưởng. Nếu Ngài sẽ quan lâm, các môn đệ dưới sự bảo trợ và sự hướng dẫn của Ngài, với cả hai, các vị tu sĩ và cư sĩ, sẽ có cơ hội được thưởng thức hương vị phi thường của Giáo Pháp (Pháp Vị). Vì thế, để tạo điều kiện hỗ trợ chúng con với sự viếng thăm của Ngài, các môn đệ của Ngài một cách nghiêm cẩn và khiêm cung thỉnh nguyện cầu Đại Trưởng Lão.
Môn đệ Ba Khin
Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế Đường Inya Myaung, Yangon.
Venerable Webu Sayadaw was not able to reside at the centre for ten days, however, as he had accepted other invitations. But he did come for fivw days (May 13 – 18, 1960). Once again, those at the centre were able to pay respects to the Sayadaw as they had done before. There was also an American, Dr. Hislop, at the centre at that time. He had been meditating there for nearly a month and was able to continue while Venerable Webu Sayadaw was there. Dr. Hislop took the Triple Refuge from the Sayadaw. Venerable Webu Sayadaw was very happy about this and urged Sayagyi to teach more foreigners. On the last day of his visit, he made this the man topic of his talk, “I also started teaching at this place,” he said over and over again.
Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã không có thể lưu trú tại trung tâm trong mười ngày, tuy nhiên, như thể Ngài đã chấp thuận những lời thỉnh mời khác. Nhưng mà Ngài đã quan lâm đến trong năm ngày (ngày 13 – 18 Tháng Năm, năm 1960). Lại một lần nữa, những người ở tại trung tâm đã có thể bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão như là họ đã làm trước đó. Ngoài ra còn có một người Mỹ, Tiến Sĩ Hislop, ở tại trung tâm vào thời điểm đó. Ông ta đã có hành thiền nơi đó gần đến một tháng và đã có thể tiếp tục trong khi Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã có ở nơi đó. Tiến sĩ Hislop đã thọ Tam Quy từ nơi Đại Trưởng Lão. Ngài Đại Trưởng Lão đã rất là hoan hỷ về việc nầy và đã khuyến khích Giáo Thọ giảng dạy thêm những người nước ngoài. Vào ngày cuối của chuyến viếng thăm của mình, Ngài đã thực hiện điều nầy ở chủ đề chính của buổi nói chuyện của mình. “Sư cũng đã khởi sự giảng dạy ở tại địa điểm nầy”, Ngài đã nói đi và nói lại nhiều lần.
After 1960, no special invitations were extended to the Sayadaw to come and reside at I.M.C., but the meditators there always went to pay their respects to him whenever he came to Yangon. In this way, Venerable Webu Sayadaw continued to encourage Sayagyi’s international mission of spreading the Dhamma.
Sau năm 1960, không có lời thỉnh mời đặc biệt nào đã được mở rộng ra đến Đại Trưởng Lão để quan lâm và lưu trú tại Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế, tuy nhiên những thiền giả ở tại nơi đó đã thường luôn bầy tỏ lòng tôn kính của họ đối với Ngài bất luận khi nào Ngài đã đi đến Yangon. Bằng phương thức nầy, Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã tiếp tục khuyến khích nhiệm vụ quốc tế của Giáo Thọ về việc xiển dương Giáo Pháp.
Một số videos về Ngài Webu Sayadaw
Đọc sách eBooks tại đây: An Tịnh Thù Thắng Đạo
5Antinhthuthangdao