U KO LAY’S ACCOUNT OF SAYAGYI’S ORDINATION – BÀI TƯỜNG THUẬT CỦA ÔNG KO LAY VỀ VIỆC XUẤT GIA CỦA GIÁO THỌ

At about half past four, we arrived at Webu Sayadaw’s monastery, the Ingyinbin forest retreat, in Khin U township. The sky had been overcast during the entire trip, so we were spared the oppressive heat and arrived at the monastery feeling fresh.

Vào khoảng ba giờ rưỡi trưa, chúng tôi đã đi đến tu viện của Đại Trưởng Lão Webu, nằm ẩn khuất trong khu rừng Ingyinbin, ở tại thị trấn Khin U. Bầu trời đã u ám trong suốt chuyến đi, vì vậy chúng tôi đã bị ảnh hưởng cái nóng ngột ngạt và đã đến tại tu viện cảm giác được mát mẻ.

We immediately informed U Sumana (the Sayadaw’s nephew who was the monk in charge of the refectory) of our arrival and the reason for our visit. He went to report to Webu Sayadaw. Sayagyi and I were lodged in a new building donated by the rice mill owners U Ba Tu and Daw Hymin. That evening at about seven o’clock, the Pauk Taw Sayadaw U Sàsana ordained Sayagyi and me as Sàmaneras (Novices), and at about eight o’clock, we went to pay respects to Webu Sayadaw. We requested that the Sayadaw be our preceptor and that he accept us as his disciples. The Sayadaw asked Sayagyi the day of the week he was born (*) and whether he remembered the name he had been given at his ordination as a Sàmanera when he was a boy. Saygayi replied that he was born on a Monday and that the Shway – gon – taing Sayadaw had given him the name U Kusala when he ordained as a novice.

[(*): Names are given to novices and monks depending on the day of the week the candidate was born. Different letters of the alphabet are assigned to each day of the week and the name given must begin with one of the letters corresponding to the day of birth.]

Ngay lập tức chúng ta đã báo tin cho Sư Sumana (cháu trai của Đại Trưởng Lão là một vị tu sĩ phụ trách về trai đường) về việc đến của chúng tôi và lý do cho chuyến viếng thăm của chúng tôi. Sư đã đi trình báo đến Đại Trưởng Lão Webu. Giáo Thọ và Tôi đã được cấp chỗ ở tạm trong một tòa nhà mới xây đã được cúng dường bởi các chủ nhà máy xay lúa là Ông Ba Tu và Bà Hymin. Vào khoảng bảy giờ tối ngày hôm đó, Đại Trưởng Lão Pauk Taw U Sàsana đã xuất gia cho Giáo Thọ và Tôi như là các vị Sa Di (những tập sự), và vào khoảng tám giờ, chúng tôi đã đi đến bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão Webu. Chúng tôi đã thỉnh cầu Đại Trưởng Lão làm Thầy Tế Độ cho chúng tôi và như thế Ngài chấp thuận chúng tôi như là những môn đệ của Ngài. Đại Trưởng Lão đã vấn hỏi Giáo Thọ về ngày nào ở trong tuần mà ông đã được sanh ra (*) và ông ta có còn nhớ hay không cái tên gọi mà ông đã được trao truyền vào lễ xuất gia là một vị Sa Di của mình khi ông ta còn là một cậu bé. Giáo Thọ đã trả lời rằng ông ta đã sanh vào ngày Thứ  Hai và như thế là ngày Sư Tử, Đại Trưởng Lão đã trao cho ông ta cái tên gọi là Sư Kusala khi ông ta đã xuất gia làm một vị tập sự.

[(*): Những tên gọi được trao truyền đến các tập sự và các vị tu sĩ tùy thuộc vào ngày ở trong tuần mà giới tử đã được sinh ra. Những mẫu tự khác biệt nhau của bảng chữ cái đã được quy định vào mỗi ngày ở trong tuần và tên gọi phải được bắt đầu với một trong các mẫu tự tương ứng của ngày sinh.]

“This is a name well suited to you, great lay disciple,” the Sayadaw said, “You will take this name as a monk, also.” As I could not remember my monk’s name from my former ordination, the Sayadaw pondered for a while and then said, “As you were born on Saturday, I’ll give you the name Ashin Tejinda.”

“Đây là tên gọi rất phù hợp với con, nầy đại đệ tử cư sĩ,” Đại Trưởng Lão đã nói, “Con cũng sẽ dùng cái tên gọi nầy khi là một vị tu sĩ.”

Vì Tôi không thể nhớ đến cái tên gọi tu sĩ từ nơi lễ sự xuất gia trước đây của tôi, Đại Trưởng Lão đã suy nghĩ một lúc và rồi đã nói, “Vì con đã sinh ra vào ngày Thứ Bảy, Sư sẽ trao cho con tên gọi là Đại Đức Tejinda.”

On Friday, June 18, 1965, a group of lay disciples assembled in the Dhamma Hall after nine o’clock to pay respects to the Sayadaw. After giving a discourse, Webu Sayadaw had the ordination ceremony prepared. As on the last occasion when I had ordained, the men from the village that offered alms to the monastery put the future monks (yahan laung) under a palanquin and carried them on their shoulders around the boundaries of the monastery. In the procession behind the men came the women, carrying palm leaves and flowers. Drums and other musical instruments were played. After this, Sayagyi had alms food offered  to over fifty monks and novices.

Vào Thứ Sáu, ngày 18 Tháng Sáu năm 1965, một nhóm những vị cư sĩ đã tập hợp lại sau chín giờ ở trong Giảng Đường để bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão. Sau khi đã ban bố một thời Pháp Thoại, Đại Trưởng Lão Webu đã có lễ xuất gia được chuẩn bị sẵn. Vì đây là cơ hội cuối cùng khi Tôi đã được xuất gia, những nam nhân từ ở thôn làng mà đã để bát cúng dường đến tu viện, đặt những vị tu sĩ tương lai (yahan laung) vào trong một cái kiệu và đã khiêng họ ở trên những đôi vai của mình vòng quanh những ranh giới của tu viện. Trong đoàn diễu hành, đàng sau những người nam là đến các người nữ, đang cầm lấy những lá cây cọ và những bông hoa. Những cái trống và các nhạc cụ khác đã được tấu hợp. Sau sự việc nầy, Giáo Thọ đã để bát cúng dường vật thực đến hơn năm mươi vị tu sĩ và các tập sự.

At about one o’clock, Sayagyi and I (both still sàmaneras) had to go to the Sìmà (ordination hall) that was in front of the Tiloka Sabbannu Ceti to take part in the ordination ceremony with the local Sangha. When Webu Sayadaw came, we became Dullabha – Bhikkhus (+) under him and entered the folds of the Sàsana. The reciters of the Kammavàcà (Kammavà in Burmese: a formal proceeding; in the case, the ordination) were Sayadaw U Sàsana from Pauktaw Monastery, U Àsara from Sawgyi Monastery, Sayadaw U Nàna from the Webu Meditation Monastery, U Sumana from Ingyinbin Monastery, and many others. We became monks at 2:06 PM. Because the sky had been overcast since that morning, it was not possible to measure a man’s shadow to determine the time of day (*).

[(+): The difficult – to – attain state of being a monk.]

[(*): In addition to recording the time according to a clock, the traditional way of telling time by measuring the shadow cast by the sun is used in ordinations whenever possible.]

Vào khoảng một giờ, Giáo Thọ và Tôi (cả hai vẫn còn là các vị Sa Di) đã đi đến Thánh Địa Sìmà (căn phòng làm lễ xuất gia) đó là ở phía trước của Bảo Tháp Toàn Giác Tam Giới để dự phần vào nghi lễ xuất gia với Tăng Đoàn địa phương. Khi Đại Trưởng Lão Webu đã quan lâm đến, chúng tôi đã trở thành những vị Tỳ Khưu Nan Đắc (+) ở dưới Ngài và đã gia nhập vào sự bao bọc của Giáo Hội. Những vị tụng đọc về Tuyên Ngôn (theo Miến Ngữ là Kammavà: một nghi thức thủ tục; trong trường hợp nầy, sự xuất gia) đó là Đại Trưởng Lão U Sàsana từ Tu Viện Pauktaw, Sư Àsara từ Tu Viện Sawgyi, Đại Trưởng Lão U Nàna từ Tu Viện Thiền Đường Webu, Sư Sumana từ Tu Viện Ingyinbin, và nhiều vị tu sĩ khác nữa. Chúng ta đã trở thành các vị tu sĩ vào lúc 2:06 PM. Bởi vì bầu trời đã là u ám kể từ buổi sáng hôm đó, thì không thể nào đo lường được cái bóng của con người để xác định thời gian ở trong ngày (*).

[(+): Trạng thái nan đắc của việc thành một vị tu sĩ.]

[(*): Ngoài việc ghi giữ lại thời gian căn cứ vào cái đồng hồ, theo phương thức cổ truyền về việc báo thời gian bằng cách đo vào cái bóng đổ theo mặt trời đã được dùng trong các lễ xuất gia bất luận khi nào có thể được.]

Thanks to the Buddha, the Knower of the Three Worlds, the Omniscient One, in the year 2509 of the Buddhist religion, the year 1327 by the Burmese calendar, on the fourth day of the waning moon in the month of Nayon, a Thursday, at two hours and six minutes after noon, we were ordained under the Sayadaw of Ingyinbin Monastery before the Kammavà experts and qualified Sanghas (monks) who were eighteen in all. Ashin Kusala and Ashin Tejinda were lifted from the lowly state of novices to the lofty state of monkhood.

Thành kính tri ân đến Đức Phật, bậc Liễu Tri Tam Giới, bậc Toàn Giác, vào năm 2509 của Phật Lịch, năm 1327 của Miến Lịch, vào ngày thứ tư của trăng hạ huyền trong Tháng Sáu, ngày Thứ Năm, vào lúc hai giờ và sáu phút sau buổi trưa ngọ, chúng tôi đã được xuất gia với Đại Trưởng Lão của Tu Viện Ingyinbin trước những Tăng Đoàn với tất cả là mười tám vị (các vị tu sĩ) Tụng Đọc Tuyên Ngôn tinh thông và đầy đủ phẩm hạnh. Đại Đức Kusala và Đại Đức Tejinda đã được cất nhắc lên từ vị trí bậc thấp của hàng tập sự (Sa Di) đến vị trí bậc cao thượng của hàng Tăng lữ.

At four o’clock, having become monks, we moved from our house in the section of the monastery reserved for lay people, to a building in the part reserved for monks. The building was called Yan – aung – mingalar – kyaung (the auspicious monastery for the overcoming of danger). It had been donated by U Aung, Daw Yin, and their family, who were from Market Street in the Shantaw quarter in Monywa. The building was a new, single storey structure, and  U Kusala and U Tejinda were the first monks to occupy it. As there was running water, we had a flush toilet and a bathroom. We also had electricity. Sayagyi (U Kusala) lived in the front room near the entrance and I was in the back near the bathroom. U Hla Tun stayed in a small meditation hut at the back of our building. He prepared our early morning meal there.

Vào bốn giờ, sau khi đã trở thành các vị tu sĩ, chúng tôi đã di chuyển từ căn nhà của mình trong khu vực của tu viện đã dành cho người cư sĩ, đến một tòa nhà ở trong vùng đã dành cho các vị tu sĩ. Tòa nhà đã được gọi là “tu viện kiết tường để khắc phục sự hiểm nguy”. Nó đã được cúng dường bởi Ông Aung, Bà Yin, và gia đình của họ, là những người ở tại đường Market, trong khu phố Shantaw, thuộc Monyawa. Tòa nhà là thuộc loại mới, cấu trúc nhà một tầng, và Sư Kusala với Sư Tejinda là các vị tu sĩ đầu tiên đến cư trú ở nơi đó. Vì tòa nhà có được chạy nước máy, chúng tôi đã có một bồn cầu dội nước và một phòng tắm. Chúng tôi cũng đã có điện.  Giáo Thọ (Sư Kusala) đã sống trong căn phòng ở phía trước gần lối đi  vào và Tôi thì ở phía sau cạnh bên phòng tắm. Ông Hla Tun đã ở trong một tiểu thiền thất ở phía sau tòa nhà của chúng tôi. Ông ta đã chuẩn bị bữa ăn sáng sớm cho chúng tôi ở tại nơi đó.

At 5:00 P.M., we went to the Tipitaka Library to pay respects to the Sayadaw with all the other monks. Then at 6:00 P.M., we went to see the Sayadaw in his residence and Sayagyi made an offering of the following items: one set of the Tipitaka texts, five sets of robes, five umbrellas, five pairs of slippers and five blankets.

Vào 5:00 P.M., chúng tôi đã đi đến Thư Viện Tam Tạng để bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão, và với tất cả các vị tu sĩ khác nữa. Thế rồi vào 6:00

P.M. chúng tôi đã đi đến để diện kiến Đại Trưởng Lão ở tịnh thất của Ngài và Giáo Thọ đã thực hiện một sự cúng dường với các khoản mục sau đây: một bộ về những văn bản Tam Tạng, năm bộ y áo, năm cây dù, năm đôi dép và năm cái mền.

Saturday, June 19, 1965, was our first day as monks. We followed the same timetable that is used during meditation courses at the International Meditation Centre in Inya Myaing Road, Yangon. I got up just before four o’clock in the morning. I do not know how long Sayagyi had already been up by then. I found  him sitting cross – legged on his bed, meditating.

Thứ bảy, ngày 19 Tháng Sáu, năm 1965, đó là ngày đầu tiên của chúng tôi là các vị tu sĩ. Chúng tôi đã noi theo thời gian biểu mà đã có sử dụng trong các khóa thiền ở tại Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế trên đường Inya Myaing, Yangon. Tôi đã thức dậy ngay trước lúc bốn giờ vào buổi sáng. Tôi không biết Giáo Thọ đã  thức dậy vào khoảng ấy được bao lâu rồi. Tôi đã thấy ông ta đang ngồi kiết già ở trên giường của ông, đang hành thiền.

After eating our dawn meal, which consisted of rice mixed with sundry ingredients, we continued to meditate in our monastery. Then Sayagyi went to water a young Bodhi tree, and he recited the Udàna and Patthàna. He awakened the Bodhi – dhàtu (the element of Awakening). After our midday meal at eleven o’clock, we continued to meditate, following the same schedule used at IMC – Yangon. From five to nine in the evening we took exercise, walking up and down, and then went to bed. We observed this schedule every day and I believe that in this way my observance of the monk’s rules was more perfect than the the first time I was there. Sayagyi spent a great deal of time reciting verses of the Udàna, the Uddesa and Niddesa of the Patthàna, the Patthàna Panhàvàra, and the Mahàsamaya – Sutta, either in the shade of the Bodhi tree or in our monastery.

Sau khi đã dùng bữa ăn vào lúc rạng đông sáng của chúng tôi, trong đó bao gồm cơm được trộn với những thành phần tạp phẩm, chúng tôi đã tiếp tục hành thiền trong tu viện của chúng tôi. Sau đó, Giáo Thọ đã đi tưới một cây bồ đề con  và ông đã trùng tụng phần Tự Thuyết Kinh Phát Thú.  Ông đã giác ngộ về  Giác Tố Chất (yếu tố của Sự Giác Ngộ). Sau bữa ăn trưa của chúng tôi vào lúc mười một giờ, chúng tôi đã tiếp tục hành thiền, noi theo cùng một lịch trình đã sử dụng tại Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế – Yangon. Từ năm đến chín giờ tối, chúng tôi đã tập thể dục, đã đi lên và xuống, và sau đó đã đi đến để diện kiến Đại Trưởng Lão. Chúng tôi đã bầy tỏ lòng tôn kính đến Ngài và đã thực hiện các  nhiệm vụ của chúng tôi đối với Ngài. Từ chín đến mười một giờ, chúng tôi đã  hành thiền và sau đó đã đi ngủ. Chúng tôi đã tuân thủ lịch trình nầy vào mỗi ngày và Tôi tin tưởng rằng bằng phương thức nầy việc tuân thủ của tôi về những giới luật của các vị tu sĩ đã là hoàn hảo hơn so với lần đầu tiên mà Tôi đã có.

Giáo Thọ đã dành rất nhiều thời gian cho việc trùng tụng những câu kệ về Tự Thuyết Kinh, Xiển Thuật Xiển Minh của Phát Thú, Phát Thú – Giai Đoạn Vấn Đề, Kinh Đại Hội, ở trong bóng mát của cây Bồ Đề hoặc là ở trong tu viện của chúng tôi.

One Sunday, June 20, 1965, we went for a walk around the monastery boundary after our meal at dawn. We found Venerable Webu Sayadaw walking up and down. He was holding a broom in his hand, and whenever he saw some rubbish, he swept it up. He especially swept under some flowering trees where the ground was covered with withered blossoms.

Vào một ngày Chủ Nhật, ngày 20 Tháng sáu năm 1965, chúng tôi đã đi dạo vòng quanh ranh giới của tu viện sau bữa ăn vào lúc rạng đông sáng. Chúng tôi đã thấy Ngài Đại Trưởng Lão Webu đang đi lên và xuống. Ngài đang cầm một cây chổi ở trong tay của Ngài, và bất luận khi nào Ngài đã trông thấy một vài rác rưới, Ngài đã quét nó lên. Một cách đặc biệt là Ngài đã quét ở dưới những cây đang nở hoa mà ở nơi đó mặt đất đã bị phủ che bởi những hoa héo tàn.

At about twenty past seven, the Sayadaw came to our building. There were lay people sweeping all around the monastery. The Sayadaw came into our monastery and stood there as we paid respects to him. He did not speak at first. His eyes looked around the room. Then he looked at us. “Is everything well with you ?” he asked. “Are you developing under – standing?” Sayagyi told him that he wished to donate three hundred kyats towards a pagoda to be built at Webu Sayadaw’s birth place, and two hundred for repairs to the Buddha seats under the Bodhi trees. Sayagyi also said he would send  flowering trees for the monastery. Webu Sayadaw accepted these offerings and left us again.

Vào khoảng bảy giờ hai mươi, Đại Trưởng Lão đã đi đến tòa nhà của chúng tôi. Nơi đó có các vị cư sĩ đang quét dọn khắp cả xung quanh tu viện. Đại Trưởng Lão đã đi vào bên trong tu viện của chúng tôi và đã đứng nơi đó trong khi chúng tôi đã bầy tỏ lòng tôn kính đến Ngài. Trước tiên Ngài không nói chi cả. Đôi mắt của Ngài đã nhìn quanh căn phòng. Sau đó Ngài đã nhìn vào chúng tôi.

“Có phải mọi việc đều tốt đẹp đối với các con ?” Ngài đã vấn hỏi “Có phải các con đang phát triển sự hiểu biết?”

Giáo Thọ đã bạch với Ngài rằng ông ước muốn được cúng dường ba trăm kyats (tiền Miến Điện) hướng vào một ngôi chùa sẽ được xây dựng ở tại nơi sinh quán của Đại Trưởng Lão Webu, và hai trăm kyats cho việc tu sửa lại các bồ đoàn của Đức Phật ở dưới những cây Bồ Đề. Giáo Thọ cũng đã nói ông muốn gửi  những cây nở hoa đến cho tu viện. Đại Trưởng Lão đã chấp thuận các việc cúng dường nầy và lại từ biệt chúng tôi.

Our time of arrival coincided exactly with the beginning of preparations to build a pagoda at the spot where Webu Sayadaw was born. This was in the village of Ingyinbin. If one follows the road in front of the monastery gate, one arrives after a short while in Ingyinbin. The former site of the house of the Sayadaw’s family is to north of the village, against the boundary fence. This is where the  Shwe – chet – tho Ceti (*) was built for the Sayadaw. The Sayadaw had three Bodhi trees planted in the compound of the meditation centre. The one in the north – west corner was already quite big. The other two were planted later. Sayagyi gave dàna so that the surrounding walls  and the Buddha seats under these two trees could be repaired.

[(*): Chet – tho in Burmese indicates the place where the umbilical cord is buried, hence: “the birth place.” “Shwe” means “golden”]

Thời điểm của việc đi đến của chúng tôi đã trùng hợp một cách chính xác với giai đoạn đầu cho những việc chuẩn bị để xây dựng một ngôi chùa ở tại địa điểm đó là nơi Đại Trưởng Lão Webu đã được sinh ra. Đây là ở trong làng của Ingyinbin. Nếu người ta noi theo đường lộ ở phía trước cổng của tu viện, thì sau một thời gian ngắn, người ta đi đến nơi Ingyinbin. Địa điểm trước đây của căn nhà thuộc gia đình của Đại Trưởng Lão là ở về hướng bắc của thôn làng, đối nghịch lại cái hàng rào của ranh giới. Đây là nơi mà Bảo Tháp (*) Shwe – chet – tho (Bảo Tháp bằng vàng thờ dây cuống rốn) đã được xây dựng cho Đại Trưởng Lão.

Đại Trưởng Lão đã có ba cây Bồ Đề đuợc trồng ở trong khuôn viên của thiền viện. Một ở trong góc tây bắc đã được khá lớn. Hai cây kia đã được trồng  sau hơn. Giáo Thọ đã xả thí cúng dường để cho các bức tường chung quanh và  các bồ đoàn của Đức Phật ở dưới hai cây nầy có thể được tu sửa lại.

[(*): Chet – Tho trong Miến Ngữ chỉ cho biết địa điểm mà nơi đó đã chôn cất dây cuống rốn, vì lý do đó: “sinh quán”. “Shwe” có nghĩa là “bằng vàng”]

On Monday, June 22, 1965, Sayagyi went to pay respects to the monks who accompanied Webu Sayadaw whenever he came to IMC – Yangon. At 3:00 A.M. that morning, the Sayadaw, accompanied by a few monks, went to place where the new pagoda was to be built. He recited the Parittas and marked the site with a post. In the afternoon, the villagers cleared the ground for the foundations of the pagoda under the guidance of U Sumana (the monk who was Webu Sayadaw’s nephew.)

Vào Thứ Hai, ngày 22 Tháng Sáu năm 1965, Giáo Thọ đã đi đến bầy tỏ lòng tôn kính đến các tu sĩ là những vị đã tháp tùng theo Đại Trưởng Lão Webu bất luận khi nào Ngài đã quan lâm đến Trung Tâm Thiền Viện Quốc tế – Yangon. Vào lúc 3:00 A.M., buổi sáng hôm đó, Đại Trưởng Lão, với một vài vị tu sĩ đã tháp tùng đi theo, đã đi tới địa điểm là nơi mà ngôi chùa mới sẽ được xây dựng. Ngài đã trùng tụng những bài Kinh an lành và đã làm dấu định vị với một trụ cột. Vào buổi chiều, các dân làng đã dọn sạch mặt đất để làm nền móng cho ngôi chùa dưới sự hướng dẫn của Sư Sumana (vị tu sĩ là cháu trai của Đại Trưởng Lão Webu.)

From a quarter past eight until after nine o’clock on June 24th, we had the opportunity to spend some time alone with the Sayadaw. Sayagyi told Webu Sayadaw that we would discrobe and go back to Yangon the next day because he had his responsibilities towards his disciples, especially the foreign disciples, to fulfil. If the opportunity arose, Sayagyi continued, he planned to go abroad to teach meditation. He requested the Sayadaw to give him advice concerning the spreading of the Teachings in foreign countries. The Sayadaw complied with this request and explained the aspects that required special attention.

Từ tám giờ mười lăm cho đến sau chín giờ vào ngày 24 Tháng Sáu, chúng tôi đã có cơ hội để dành một ít thời gian riêng một mình với  Đại Trưởng  Lão. Giáo Thọ đã bạch Đại Trưởng Lão Webu rằng chúng tôi muốn cởi y và đi về lại Yangon vào ngày hôm sau, vì lẽ ông ta đã có và phải làm tròn trách nhiệm của mình đối với những môn đệ của ông ta, một cách đặc biệt là các môn đệ nuớc ngoài. Nếu có được cơ hội, Giáo Thọ lại tiếp tục, ông đã dự định đi ra nước ngoài để giảng dạy thiền. Ông đã thỉnh cầu Đại Trưởng Lão cho ông ta lời khuyên nhủ liên quan đến sự xiển dương về những Giáo Lý ở các nước ngoài. Đại Trưởng Lão đã chiều thuận theo lời thỉnh cầu nầy và đã giải thích các khía cạnh mà nhất thiết phải đặc biệt quan tâm đến.

Then I told the Sayadaw how I started practising Ànàpàna when I first ordained, and how I had continued to meditate, first under Shwe – zedi Sayadaw, then under Sayagyi U Ba Khin. “But Venerable Sir,” I continued, “there is one thing that is not clear to me. I have been working hard in this field of meditation for many years now, but if I compare my mind with other people’s minds, I have not developed greatly. I wonder if I have any Pàramis?”

Sau đó Tôi đã bạch Đại Trưởng Lão về cách thức Tôi đã bắt đầu tu tập Sổ Tức khi Tôi đã xuất gia lần đầu tiên, và cách thức Tôi đã tiếp tục hành thiền, trước tiên dưới sự chỉ dạy của Đại Trưởng Lão Shwe – zedi, sau đó dưới sự chỉ dạy của Giáo Thọ Ba Khin. “Tuy nhiên kính bạch Ngài,” Tôi đã tiếp tục, “có một điều mà không được sáng tỏ đối với con. Con đã làm việc chăm chỉ trong lĩnh vực của  thiền định nầy đã nhiều năm nay, nhưng nếu Con so sánh tâm thức của con với tâm thức của những người khác, Con đã không phát triển được bao nhiêu. Con đã tự hỏi liệu là Con có Pháp Toàn Thiện nào hay không?”

The Sayadaw listened attentively to what I had to say and then replied, “You have a great many Pàramis. Look at these other people,” he said, pointing to  three or four people from the village who were sweeping outside. “Their Pàramis are only a few, but your are many. You live now in a big brick building with a nice garden around it. I don’t mean the house you were living in before. That didn’t belong to you. I mean the house and garden in which you are living now.  You  have flowers and trees. You own many things. These people don’t have all that. If you listen to the Lord Buddha’s Teachings and practise them, then you will attain anything you aspire to.”

Đại Trưởng Lão đã lắng nghe một cách chăm chú về những gì Tôi đã nói và sau đó đã trả lời, “Con có rất nhiều Pháp Toàn Thiện. Hãy nhìn vào những người ở trước nầy đây,” Ngài đã nói, đang chỉ vào ba hoặc bốn dân làng là những người đang quét ở bên ngoài. “Pháp Toàn Thiện của họ thì chỉ là một ít, nhưng của con thì rất nhiều. Hiện giờ con sống trong một tòa nhà gạch lớn với một khu vườn xinh xắn ở xung quanh nó. Sư không muốn nói đến căn nhà con đã sống trước kia. Căn nhà đó đã không thuộc về con. Sư muốn nói đến căn nhà và mảnh vườn mà con hiện đang sinh sống. Con có những bông hoa và cây cối. Con làm chủ rất nhiều thứ. Những người nầy không có tất cả về điều đó. Nếu con lắng nghe những Giáo Lý của Đức Thế Tôn và thực hành theo chúng, thế rồi con sẽ thành đạt bất luận điều gì mà con ước nguyện đến.”

I did not have much time to think about his words as we had to make arrangements for the offering Sayagyi was going to present to all the monks, novices, and Sìla – shins (*) at the monastery. We first took food to Webu  Sayadaw and offered it to him. After that, food was offered to the other residents  of the monastery.

[(*): Sìla – shin “honourable keeper of the moral precepts”. The traditional of the ordination of women has been lost in Theravàda Buddhism, and, according to the view of the leading Burmese monks, it can be re – established only by a Buddha. This means that women who want to lead a religious life in Burma dress in certain colours, shave their heads, and live in communities where they observe the eight precepts or the ten precepts. Sìla – shins live as mendicants, although some accept donation in the form of money.]

Tôi đã không có nhiều thời gian để nghĩ suy về những lời nói của Ngài vì chúng tôi đã phải chuẩn bị cho việc cúng dường Giáo Thọ sẽ đi dâng cúng đến tất cả các vị tu sĩ, những vị tập sự và các vị Nữ Giới Tử ở tại tu viện. Trước tiên chúng tôi đã cầm thực phẩm đến Đại Trưởng Lão Webu và đã cúng dường nó đến với Ngài. Sau đó, thực phẩm đã được cúng dường đến những cư dân khác của tu viện.

[(*): Nữ Giới Tử “người thọ giữ các điều giới đức đáng tôn kính”. Truyền thống của việc xuất gia cho những người nữ đã bị hoại diệt trong Phật Giáo Nguyên Thủy, và, căn cứ theo quan điểm của các vị tu sĩ lãnh đạo của Miến Điện, nó chỉ có thể được tái lập duy nhất do bởi một vị Phật. Điều nầy có nghĩa là những người nữ mà muốn sống một đời sống tu hành trong việc vận những sắc phục nhất định ở Miến Điện, cạo bỏ đầu tóc, và sống trong những cộng đồng mà nơi đó họ tuân thủ tám điều học giới hoặc là mười điều học giới. Các Nữ Giới Tử sống như những vị khất sĩ, mặc dù có một vài chấp nhận những tặng vật dưới hình thức của tiền bạc]

It was only when I lay down after the midday meal that I started to wonder how the Sayadaw could possibly have known that I now owned my own house and garden. He had been to my house in the compound of Mandalay University. I had told him about moving to Maymyo, but nothing else. What did the Sayadaw want  to tell me by comparing my situation with that of from the village, saying I had good Pàramìs ?

Điều đó chỉ là khi tôi nằm xuống sau bữa ăn trưa ngọ mà Tôi đã bắt đầu tự hỏi làm thế nào Đại Trưởng Lão có khả năng để biết rằng Tôi hiện giờ đã làm chủ căn nhà của mình và mảnh vườn. Ngài đã có đến căn nhà của tôi trong khuôn viên của Đại Học Mandalay. Tôi đã bạch với Ngài về việc di chuyển đến Maymyo, ngoài ra không có gì khác hơn. Đại Trưởng Lão đã muốn nói với tôi điều chi qua việc so sánh tình trạng của tôi với của người dân trong làng, khi nói rằng Tôi đã có những Pháp Toàn Thiện tốt đẹp ?

After taking rest, I sat on my bed meditating. After a while I opened my  eyes. I looked through to the other room where Sayagyi was sitting cross – legged reciting the Patthàna. Behind his head I could see Webu Sayadaw’s dwelling. I understood then that the Sayadaw had wanted to tell me not to look only at people of eminent Pàramis such as himself and Sayagyi, but also to compare myself with people of few Pàràmis in order to see how far I had already come. That was why had pointed out the village men who were sweeping the compound. In the evening, we went back for the last time with the other monks to pay respects to Webu Sayadaw. Sayagyi then went to water the Bodhi  tree.  Afterwards, he recited the Udàna until nine o’clock.

Sau khi đã nghỉ ngơi, Tôi đã ngồi hành thiền trên cái giường của mình. Sau một thời gian, Tôi đã mở đôi mắt ra. Tôi đã nhìn qua các phòng khác, là nơi Giáo Thọ đã đang ngồi kiết già trùng tụng Phát Thú. Ở phía sau cái đầu của ông ta, Tôi có thể nhìn thấy chỗ trú ngụ của Đại Trưởng Lão Webu. Bấy giờ Tôi hiểu được rằng Đại Trưởng Lão đã muốn nói với tôi không chỉ nhìn vào người xuất chúng về những Pháp Toàn Thiện như là chính bản thân Ngài và Giáo Thọ, mà cũng còn để so sánh bản thân mình với người có một ít Pháp Toàn Thiện để được thấy Tôi đã đi được đến đâu rồi. Đó đã là lý do tại sao Ngài đã chỉ ra các dân làng là những người đang quét dọn khuôn viên.

Vào buổi chiều tối, chúng tôi đã quay trở lại lần cuối cùng với các vị tu sĩ khác để bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão Webu. Thế rồi, Giáo Thọ đã đi tưới nuớc cây Bồ Đề. Sau đó, ông đã trùng tụng Tự Thuyết Kinh mãi cho đến chín giờ.

After having our meal at dawn on June 28th, we reverted to the lower state of laymen in the presence of the Sayadaw. We tidied up our things and cleaned our living quarters with the help of U Hla Tun. Then we greeted U Sumana and the other monks who were there and left the Ingyinbin forest retreat.

Sau khi đã dùng bữa ăn vào lúc rạng đông sáng của chúng tôi vào ngày 28 Tháng Sáu, chúng tôi đã trở lại vị trí bậc thấp của hàng cư sĩ trong sự hiện diện của Đại Trưởng Lão. Chúng tôi đã dọn dẹp các vật dụng của mình và đã làm sạch sẽ khu nhà ở của chúng tôi với sự giúp đỡ của Ông Hla Tun. Sau đó chúng tôi đã  chào hỏi Sư Sumana và các vị tu sĩ khác là những vị đã ở nơi đó và đã rời khỏi khu rừng ẩn khuất Ingyinbin.

We stopped in Khin U to collect our pictures, which had been taken by a photographer from a studio there a few days before. From there, we continued to Shwebo where we stopped at U Hpe Tin’s house for coffee and a snack. Then we went to Webu Sayadaw’s monastery outside Shwebo to pay respects and have a look around.  We continued our journey and arrived at eleven o’clock at the Kaung – hmudaw Pagoda.  We circumambulated the pagoda twice and made offerings of flowers, oil lamps, and incense. Back in Sagaing, we rested and had lunch at my wife’s sisters’house.

Chúng tôi đã dừng lại trong khu Khin U để thu thập các hình ảnh của chúng tôi, mà đã được thực hiện bởi một nhiếp ảnh gia từ một phòng thu hình ở nơi đó một vài ngày trước đây. Từ nơi đó, chúng tôi đã tiếp tục đến Shwebo là nơi mà chúng tôi đã dừng lại ở tại nhà của Ông Hpe Tin cho việc dùng cà phê và một bữa ăn nhẹ. Sau đó, chúng tôi đã đi đến tu viện của Đại Trưởng Lão Webu ở bên ngoài của Shwebo để bầy tỏ lòng tôn kính và thả ánh mắt nhìn chung quanh. Chúng tôi đã tiếp tục cuộc hành trình của chúng tôi và đã đi đến vào lúc mười một giờ ở tại Chùa Kaung – hmudaw. Chúng tôi đã nhiễu vòng quanh ngôi chùa hai lần và đã thực hiện việc cúng dường với những bông hoa, các đèn dầu, và hương liệu. Trở  lại tại Sagaing, chúng tôi đã nghỉ ngơi và đã ăn trưa ở tại nhà người em vợ của tôi.

We did not continue straight to Maymyo, but went to Kyauksai. We went to the Webu Monastery outside the town. When Sayagyi paid respects at the  residence of Webu Sayadaw at the top of a hill it started to rain gently. In this  light drizzle, we descended back into the valley and went to the place where Sayagyi had first paid respects to the Sayadaw twenty – four years before. Then,  as Sayagyi paid respects at the pagoda, the Bodhi tree, and the residence, it began to rain more heavily.

Chúng tôi đã không tiếp tục thẳng đến Maymyo, nhưng đã đi đến Kyauksai. Chúng tôi đã đi đến Tu Viện Webu ở bên ngoài thị trấn. Khi Giáo Thọ đã bầy tỏ lòng tôn kính vào nơi trú ngụ của Đại Trưởng Lão Webu ở trên đỉnh của một ngọn đồi thì mưa đã bắt đầu nhẹ hạt. Trong cơn mưa phùn nhẹ nầy, chúng tôi đã đi xuống trở lại vào trong thung lũng và đã đi đến địa điểm mà nơi đó Giáo Thọ đã lần đầu tiên bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão hai mươi bốn năm trước đây. Sau đó, vì Giáo Thọ đã bầy tỏ lòng tôn kính ở tại ngôi chùa, cây Bồ Đề, và nơi cư trú, mưa đã bắt đầu nặng hạt nhiều hơn.

After this we went to pay respects to a monk named Shin Saw Lu. Every time I went to Kyauksai Monastery, I went to see Venerable Shin Saw Lu. He is a monk of exceptional composure and is steadfast in the practice of meditation. He is the only monk who stayed at the Sìmà after listening to the Sayadaw’s admonitions and quietly meditating for the whole night. When Venerable Webu Sayadaw came to the Dhamma Yaung Chi Ceti at IMC – Yangon, Sayadaw paid special attention to Venerable Shin Saw Lu and respected him for his efforts. When we came out after having paid respects to Shin Saw Lu Sayadaw, it had stopped raining and the sun was coming out again. The cloud dispersed and the weather became pleasant and fine. When we reached Mandalay, the sun was shining brilliantly.

Sau sự việc nầy, chúng tôi đã đi đến để bầy tỏ lòng tôn kính đến một vị tu sĩ có tên là Shin Saw Lu. Mỗi lần Tôi đã đi đến Tu Viện Kyauksai, Tôi đã đi đến gặp Trưởng Lão Shin Saw Lu. Ngài là một vị tu sĩ có một thái độ điềm tĩnh một cách đặc biệt và kiên định trong việc tu tập về thiền định. Ngài là vị tu sĩ duy nhất đã ở lại tại Thánh Địa Sìmà sau khi lắng nghe những lời khuyên nhủ của Đại Trưởng Lão và một cách lặng lẽ hành thiền trọn cả đêm. Khi Ngài Đại Trưởng Lão Webu đã quan lâm đến Ánh Sáng Pháp Bảo Tự ở tại Trung Tâm Thiền Viện Quốc Tế – Yangon, Giáo Thọ đã đặc biệt bầy tỏ sự quan tâm đến Trưởng Lão Shin Saw Lu và đã kính trọng vào hạnh tinh tấn của Ngài. Khi chúng tôi đã đi ra ngoài sau khi đã bầy tỏ lòng tôn kính đến Đại Trưởng Lão Shin Saw Lu, trời đã dừng cơn mưa và mặt trời đang hiện ra một lần nữa. Những đám mây đã tan đi và thời tiết đã trở nên dễ chịu và tốt đẹp. Khi chúng tôi đã đến tận Mandalay, mặt trời đã chiếu sáng một cách rực rỡ.

The sky had been overcast from nine o’clock in the morning on June 17th (when we left Maymyo to go the Ingyinbin) until the end of our ten days as monks (when we left Kyauksai). The sun had shone for only a few short moments during that time. I remember clearly how the sun came through after a heavy downpour at the end of our journey in Kyauksai. We left Mandalay at 5:30 in the afternoon and arrived in Maymyo at 7:46 P.M. Sayagyi agreed to rest at my house for a day in order to give inspiration to my family. During this day, Sayagyi spent most of the time in our Buddha shrine, meditating and reciting the Patthàna.

Bầu trời đã u ám từ chín giờ sáng vào ngày 17 Tháng Sáu (khi chúng tôi đã rời khỏi Maymyo để đi đến Ingyinbin) mãi cho đến khi kết thúc muời ngày của chúng tôi là các vị tu sĩ (khi chúng tôi đã rời khỏi Kyauksai). Mặt trời đã chiếu sáng chỉ một vài khoảnh khắc ngắn ngủi trong suốt thời gian đó. Tôi nhớ một cách rõ 76at như thế nào mặt trời đã đi vượt qua sau một trận mưa như thác đổ ở vào cuối hành trình của chúng tôi trong Kyauksai.

Chúng tôi đã rời khỏi Mandalay vào lúc 5:30 chiều và đã đi đến nơi Maymyo vào lúc 7:46 PM. Giáo Thọ đã đồng ý để nghỉ ngơi ở tại nhà của tôi trong một ngày để tạo nguồn cảm hứng đến gia đình tôi. Trong suốt một ngày nầy, Giáo Thọ đã dành phần lớn thời gian ở trong phòng thờ Phật của chúng tôi, hành thiền và trùng tụng Phát Thú.

On June 30th, after lunch, I took Sayagyi to Mandalay and we arrived at the train station before two o’clock. With the help of Ko Ohn, an accountant who  knew Sayagyi well, we bought a seat reservation and a ticket at the  station. Though Sayagyi’s train left on time, he arrived an hour late in Yangon the next morning as the train had to stop in Pyinmana for an hour due to some technical problem. Sayagyi was in the habit of keeping a diary. In it, he gives a detailed  account of this period when, for the only time in his life, he was able to become a Dullabha Bhikkhu I am able to give so many details about this time in Ingyinbin only because I had access to Sayagyi’s notes.

Vào ngày 30 Tháng Sáu, sau bữa ăn trưa, Tôi đã đưa Giáo Thọ đến Mandalay và chúng tôi đã đi đến trạm xe lửa trước lúc hai giờ. Với sự giúp đỡ của Ko Ohn, một kế toán viên mà đã biết rõ Giáo Thọ, chúng tôi đã mua một chỗ ngồi dành riêng và một vé ở tại nhà trạm. Mặc dù xe lửa của Giáo Thọ đã rời khỏi đúng giờ, ông đã đi đến Yangon trễ một giờ đồng hồ vào sáng hôm sau vì xe lửa đã dừng lại tại Pyinmana trong một giờ do bởi một vài vấn đề kỹ thuật.

Giáo Thọ đã có thói quen về việc giữ một cuốn nhật ký. Ở trong đó, ông đã kể lại chi tiết của giai đoạn nầy khi, cho một lần duy nhất trong cuộc đời của mình, ông đã có thể trở thành một vị Tỳ Khưu Nan Đắc Tôi có thể cung cấp rất nhiều những thông tin chi tiết về thời gian nầy ở trong Ingyinbin chỉ là vì Tôi đã truy cập vào các sự ghi chú của Giáo Thọ.

There is an entry in the diary under July 6th that is entitled:”The journey to the Ingyinbin forest monastery in Khin U township in Shwebo District to pay respects and to verenate Webu Sayadaw. “He gave the text of this entry to his disciples: When I arrived in the presence of the Sayadaw, I venerated him, not only with material gifts, but I also verenated him by entering the folds of the Sangha, by observing the exalted Vinaya rules of the monks, and by practising meditation in this lofty Dhamma. The giving of dàna I practised was also a perfection of dàna I had not practised before in this life. As the Association and all the disciples take part in this giving of dàna as well, I went in front of the Sayadaw after I had reverted to lay life and shared the merits in his presence and with his mettà blessings.

Có một khoản mục trong nhật ký ngày 6 Tháng Bảy dưới đầu đề là: “Cuộc hành trình đến Thiền Lâm Tự Ingyinbin trong thị trấn Khin U ở Quận Lỵ Shwebo để bầy tỏ lòng kính trọng và tôn kính Đại Trưởng Lão Webu”. Ông đã trao văn bản của khoản mục nầy đến các môn đệ của ông ta:

Khi Tôi đã đi đến trước sự hiện diện của Đại Trưởng Lão, Tôi đã tôn kính Ngài, không chỉ với những món quà vật chất, tuy nhiênTôi cũng đã tôn kính Ngài bằng việc gia nhập vào sự bảo bọc của Tăng Đoàn, bằng việc tuân thủ các Giới Luật cao quý của những vị tu sĩ, và bằng việc tu tập thiền định trong Giáo Pháp cao thượng. Việc xả thí cho ra Tôi đã thực hành cũng là một việc hoàn hảo của xả thí Tôi đã không có thực hành trước đây trong kiếp sống nầy. Vì Hiệp Hội và tất cả môn đệ tham gia trong việc xả thí cho ra nầy một cách tốt đẹp, Tôi đã đi đến phía trước của Đại Trưởng Lão sau khi Tôi đã trở lại đời sống cư sĩ và đã chia xẻ những phước báu trong sự  hiện diện của Ngài và với những lời chúc phúc lân ái của Ngài.

 

Một số videos về Ngài Webu Sayadaw

 

Đọc sách eBooks tại đây: An Tịnh Thù Thắng Đạo

5Antinhthuthangdao

 


Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app