TỪ VỰNG PALI – VIỆT ÐỐI CHIẾU

 

Adhiṭṭhāna: sự quả quyết, quyết tâm. Một  trong  mười Pāramī (ba-la-mật).

Ānāpāna: sự hít thở.

Ānāpāna-sati: niệm hơi thở.

Anattā: vô ngã, không có bản chất, không có thực thể.

Một trong ba tính chất cơ bản của sự vật (xem lakkhaṇa).

Aniccā: vô thường, hay thay đổi, chóng tàn. Một trong ba tính chất cơ bản của sự vật.

Arahant / Arahant: A La Hán, người được giải thoát; người đã tiêu diệt mọi phiền não của tâm (xem Buddha).

Ariya: người cao thượng; thánh nhân. Người đã thanh tẩy tâm của mình tới mức cảm nghiệm được Niết-bàn, thực tại cơ bản nhất. Có bốn bậc thánh nhân: Sotāpanna (nhập lưu), cũng gọi là thất lai, chỉ còn  tái sinh tối đa bảy lần  nữa; sagadagami (nhất   lai),   chỉ   còn   tái   sinh một lần; anagami (bất lai), không còn tái sinh, nhưng còn các phiền não tinh tế; và Arahant (A La Hán), bậc thánh thứ tư, người hoàn toàn giác ngộ, đã tận diệt mọi phiền não, không còn tái sinh sau khi chết.

Ariya   aṭṭhaṅgika   magga:   Bát    Chánh Ðạo (xem magga).

Ariya sacca: Chân lý cao thượng (xem sacca).

Avijjā: vô minh, mê muội, ảo ảnh. Sự trói buộc đầu tiên trong chuỗi nhân duyên (paṭicca samuppāda). Cùng với tham ái (rāga) và sân hận (dosa), nó là một trong ba phiền não chính. Ba phiền não này là cội nguồn của mọi phiền não khác của tâm và do đó là nguyên nhân đau khổ. Ðồng nghĩa với moha (si mê, ảo tưởng).

Āyatana: xứ, vùng, đặc biệt là sáu vùng giác quan (salāyatana): mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tâm, cùng với những đối tượng tương ứng là:

Sắc (rūpa) tương ứng với mắt (cakkhu),

Thanh (sadda) tương ứng với tai (sota),

Mùi (ghāna) tương ứng với mũi (gadha),

–     Vị (rasa) tương ứng với lưỡi (jivhā),

Xúc cảm (phoṭṭhabba) tương ứng với thân (kāya),

–        Pháp (Đối tượng của tâm), các tư tưởng đủ loại (Dhamma) tương ứng với tâm (mano).

Những đối tượng này cũng gọi là sáu cơ năng.

Bhaṅga: Sự tiêu tan. Một giai đoạn quan trọng trong thực hành thiền Quán (Vipassāna), cảm nghiệm sự tiêu tan của tính rắn chắc bề ngoài của thân thể thành những dao động tinh vi không ngừng hiện rồi biến.

Bhāvanā: tham thiền, hay thiền, sự phát triển tâm linh. Có hai loại thiền là thiền định (samatha-bhāvanā), tương ứng với sự tập trung của tâm (samādhi), và thiền quán (vipassāna-bhāvanā), tương ứng với tuệ giác (Paññā). Phát triển thiền định sẽ dẫn tới trạng thái nhập định (jhāna). Phát triển thiền quán sẽ dẫn tới giải thoát (xem jhàna, Paññā, Samādhi, Vipassāna).

Bhāvanā-mayā Paññā: tuệ giác phát triển nhờ kinh nghiệm bản thân, trực tiếp.

Bhikkhu: Tỳ Khưu, nam tu sĩ Phật giáo; thiền giả.

Bhikkhunī: Tỳ Khưu nữ.

Bodhisatta: Bồ tát, người đang trên đường giác ngộ. Là người đang cố gắng để trở thành Phật. Tên gọi này được dùng để chỉ Ðức Phật trước khi Ngài hoàn toàn giác ngộ. Tiếng Phạn: bodhisattva.

Bojjhanga: yếu tố giác ngộ, nghĩa là phẩm chất giúp đạt giác ngộ. Thất giác chi là: niệm giác chi (sati), trạch pháp giác chi (Dhamma-vicaya), tinh tấn giác chi (viriya), hỉ giác chi (pīti), khinh an giác chi (passaddhi), định giác chi (samādhi), xả giác chi (upekkhā).

Buddha: Phật. Ðấng giác ngộ; người đã khám phá ra con đường giải thoát, đã thực hành và đạt tới đích bằng những cố gắng của chính mình. Có hai hạng Phật:

–     Pacceka-buddha, “Ðộc giác Phật”, người đã đạt giác ngộ nhưng không thể dạy cho người khác con đường giác ngộ mình đã đạt được.

–    Sammā-sambuddha, Tam miệu Tam bồ đề, hay “Toàn giác Phật,” vị Phật hoàn hảo, có thể dạy cho người khác.

Cakka: bánh xe, Bhāva-cakka, bánh xe luân hồi (tức là qui trình của đau khổ), tương đương vớisaƣsāra. Dhamma-cakka, bánh xe Giáo pháp (tức là giáo lí hay qui trình giải thoát). Bhava-cakka tương ứng với chuỗi nhân duyên theo thứ tự thường. Dhamma-cakka tương ứng với chuỗi nhân duyên theo thứ tự ngược lại, không dẫn tới sự nhân lên các đau khổ, nhưng dẫn tới sự tận diệt đau khổ.

Citā-mayā-Paññā: tuệ giác đạt được nhờ phân tích bằng trí óc (xem Paññā).

Citta:  tâm. Cittānupassanā,   niệm   tâm  (xem satipaṭṭhàna).

Dhamma: hiện tượng; đối tượng của tâm; bản tính; luật thiên nhiên; luật giải thoát, nghĩa là lời giảng của người giác  ngộ,  chân  lý. Dhammānupassanā,  niệm   pháp (xem Satipaṭṭhāna). (Tiếng Sanskrit là Dharma).

Dosa: sân hận. Cùng với tham ái (rāga) và si mê (moha), là một trong ba phiền não chính.

Dukkha: khổ, phiền não. Một trong ba đặc tính cơ bản (xem lakkhaṇa). Diệu đế thứ nhất (xem sacca).

Jhāna: nhập định, tình trạng ngây ngất, xuất thần. Có thể đạt tám trạng thái xuất  thần  nhờ  thực  hành  thiền  định (samādhi)  hay  thiền  vắng  lặng  (samatha- bhāvanā) (xem bhāvanā). Việc vun trồng những trạng thái này dẫn tới sự thư thái và hoan hỉ, nhưng không triệt tận gốc rễ những phiền não.

Kalāpa / aṭṭha-kalāpa: nguyên tử, đơn vị nhỏ nhất của vật chất, gồm bốn yếu tố và các tính chất của chúng.

Kamma: hành, đặc biệt hành động do chính mình làm và tạo quả cho tương lai của mình. Cũng gọi là nghiệp  (xem saṅkhāra). Tiếng Sanskrit là karma.

Kāya:        thân. Kāyānupassannā, niệm        than (xem satipaṭṭhāna).

Khandhā: uẩn, khối, nhóm kết hợp. Con người cấu tạo bởi ngũ uẩn: sắc (rūpa), thức (viññāna), thoï (vedanā), tưởng (saññā), hành (saṅkhāra).

Lakkhaṇa: đặc tính, dấu hiệu, nét đặc trưng. Ba đặc tính (ti-lakkhaṇa) là vô thường (Aniccā), đau khổ (Dukkha), và vô ngã (anattā). Hai đặc tính đầu có chung cho mọi hiện tượng có điều kiện. Ðặc tính thứ ba có chung cho mọi hiện tượng có điều kiện và vô điều kiện.

Loka: 1. Ðại vũ trụ, tức là vũ trụ, thế giới, bình diện hiện hữu; 2. Tiểu vũ trụ, tức là cơ cấu tâm-thân thể. Loka- dhammā, thế sự, những thăng trầm của cuộc sống mà mọi người phải đối diện, đó là lợi hay thiệt, thắng hay thua, khen hay chê, sướng hay khổ.

Magga: Ðạo, đường đi. Ariyā aṭṭhaṅgika magga, Bát Chánh Ðạo dẫn tới giải thoát khỏi đau khổ. Bát Chánh Ðạo chia thành ba nhóm:

 

  1. Sīla, giới, thanh tịnh trong lời nói và hành động:

–     Sammā-vācā, chánh ngữ

–     Sammā-Kammanta, chánh nghiệp;

–     Sammā-ājīva, chánh mạng;

  1. Samādhi, định, làm chủ tâm của mình:

–          Sammā-vāyāma, chánh tinh tấn;

–          Sammā-sati, chánh niệm;

–          Sammā-samādhi, chánh định;

III.  Paññā, Tuệ, trực giác làm cho tâm hoàn toàn trong sạch:

–          Sammā-saṅkappa, chánh kiến;

–          Sammā-diṭṭhi, chánh tư duy.

 

Magga là diệu đế thứ tư trong Tứ Diệu Ðế.

Māra: sự chết, Ma vương; lực tiêu cực, sự ác.

Mettā: từ ái, từ tâm, tình yêu vị tha và thiện chí. Một trong các phẩm chất của tâm thanh tịnh, một trong các ba la mật (Pāramī). Mettā-bhāvanā: thiền từ tâm, việc luyện tập tâm bằng phương pháp thiền.

Nibbāna: Niết-bàn; tận diệt, giải thoát khỏi đau khổ; thực tại cuối cùng;  thực  tại  vô  điều  kiện.  (Tiếng  Sanskrit: nirvāṇa).

Pāli: nghĩa đen là dòng chữ; bản văn; những bản văn ghi lại lời dạy của Ðức Phật; từ đó Pāli là ngôn ngữ của những bản văn này. Chứng cớ lịch sử, ngôn ngữ và khảo cổ học cho thấy Pāli là ngôn ngữ được nói vào thời Ðức Phật hay gần thời đó. Về sau những bản văn này được dịch sang tiếng Phạn, là ngôn ngữ chỉ dùng trong lãnh vực văn chương.

Paññā: Tuệ giác.Trí. Cấp thứ ba trong các cấp luyện tập Bát Chánh Ðạo (xem magga). Có ba loại trí: trí văn (suta-mayā Paññā), trí tư (citā-mayā Paññā), và trí tu (bhāvanā-mayā Paññā). Trong ba loại này, chỉ có loại thứ ba có thể làm cho tâm hoàn toàn thanh tịnh; người ta đạt được nó bằng việc thực hành thiền quán (vipassanā- bhāvanā). Tuệ giác là một trong năm sức mạnh của tâm, trong bảy yếu tố giác ngộ (xem bojjhaṅga), và trong mười ba la mật (Pāramī).

Pāramī / pāramitā: ba la mật, nghĩa là sự hoàn hảo, nhân đức; phẩm chất hoàn hảo của tâm giúp tiêu diệt vị kỉ và dẫn tới giải thoát. Mười ba-la-mật là: bố thí (dāna), trì giới (sīla), khước từ hay xuất gia (nekkhamma), trí tuệ (Paññā), tinh tấn hay cố gắng (viriya), nhẫn nhục hay khoan dung (khanti), chân thật (sacca), quả quyết (adhiṭṭhāna), từ tâm hay vị tha (mettā), tâm xả hay thanh thản (upekkhā).

Paṭicca samuppāda: chuỗi thập nhị nhân duyên; sự phát sinh nhân quả. Tiến trình này bắt đầu từ sự mê muội, vô minh, khiến người ta ở lại mãi trong vòng luân hồi đau khổ.

Rūpa: 1. Vật chất; 2. Sắc pháp   (xem āyatana, khandhā).

Sacca: Chân  lý.  Bốn  chân  lý  cao  cả   (Tứ  diệu  đế, ariyā-sacca) là:

–          Chân lý về khổ (Dukkha-sacca);

–          Chân lý về nguyên nhân của khổ (samudaya-sacca);

–          Chân lý về diệt khổ (nirodha-sacca);

–          Chân lý về đường dẫn tới diệt khổ (magga-sacca).

Samādhi: định, sự tập trung, kiểm soát tâm. Cấp thứ hai trong ba cấp luyện tập Bát Chánh Ðạo (xem magga). Khi được luyện tập như mục đích tự tại, nó giúp đạt tới những tình trạng ngây ngất, xuất thần (jhāna), nhưng không mang lại sự giải thoát hoàn toàn của tâm. Có ba loại định:

Khaṇika  samādhi, định  nhất  thời,  từng  lúc,  sát-na định;

Upacāra samādhi, cận định, ở mức độ gần trạng  thái xuất thần;

Appanā samādhi, đại định, trạng thái nhập thiền-na (jhāna).

Trong ba loại này, khaṇika samādhi là giai đoạn chuẩn bị cần và đủ để bắt đầu thực hành Thiền Quán.

Samatha: thanh thản, tĩnh lặng. Samatha-bhāvanā, thiền tĩnh lặng, thiền an chỉ; đồng nghĩa  với  định (samādhi) (xem bhāvanā).

Sampajañña: giác tỉnh, hiểu biết toàn diện hiện tượng tâm-vật, trực giác về tính chất vô thường của các hiện tượng ở bình diện cảm giác.

Saṅgha: Tăng già; cộng đoàn; cộng đồng những thánh nhân (ariyā), nghĩa là những người đã cảm nghiệm Niết-bàn; cộng đoàn các Tỳ Khưu nam và nữ Phật giáo; một thành viên của cộng đoàn tăng già (ariya-saṅgha), cộng đoàn Tỳ Khưu tăng (bhikkhu-saṅgha) hay Tỳ Khưu ni (bhikkhunī-saṅgha).

Saṅkhāra: hành, sự tạo thành tâm; hoạt động của ý chí; phản ứng của tâm; sự chi phối của tâm. Là một trong ngũ uẩn (khandhā), và là yếu tố thứ hai trong chuỗi mười hai nhân duyên (paṭicca  samuppāda). Saṅkhāra là nghiệp (Kamma), là hành tạo quả tương lai và vì thế là nguyên nhân tạo nên đời sống tương lai của một người (Sanskrit: saṃskāra).

Saṅkhārupekkhā: tuệ xả, nghĩa đen là bình thản đối với nghiệp (saṅkhāra). Một giai đoạn trong việc thực hành Thiền Quán, tiếp theo cảm nghiệm về bhaṅga, trong giai đoạn này những phiền não cũ còn tiềm tàng trong vô thức trở nên ý thức và biểu hiện bằng những cảm giác thân thể. Nhờ giữ được tâm thanh thản đối với các cảm giác, người hành thiền không còn tạo ra nghiệp mới nữa và làm cho những nghiệp cũ tan biến đi. Tiến trình này dần dần dẫn đến sự tiêu diệt hoàn toàn mọi saṅkhāra.

Saññā: tưởng, (từ saṃyutta-ñāṇā, nhận thức bị chi phối): tri giác, nhận thức. Là một trong năm uẩn (khandhā). Thường chịu sự chi phối của hành (saṅkhāra) trong quá khứ, vì thế, có một hình ảnh thành kiến về thực tại. Khi thực hành Thiền quán, saññā đổi thành Paññā, nhận thức chân tướng của thực tại. Nó trở thành Aniccā-saññā, Dukkha- saññā, anattāsaññā, asubha-saññā, nghĩa là nhận thức về vô thường, đau khổ, vô ngã, và bản chất ảo ảnh của vẻ đẹp bề ngoài.

Sati: chánh niệm. Một thành phần của Bát Chánh Ðạo (xem magga), và cũng là một trong năm sức mạnh của tâm và bảy yếu tố của giác ngộ (xem bojjhaṅga). Ānāpāna- sati, niệm thở.

Satipaṭṭhāna: Tứ niệm xứ. Satipaṭṭhāna có bốn khía cạnh:

–         Niệm thân (kāyanupassannā);

–         Niệm thọ (vedanānupassannā);

–         Niệm tâm (cittānupassanā);

–         Niệm pháp (dhammānupassanā).

Cả bốn khía cạnh này đều bao gồm trong việc quán sát cảm giác, vì cảm giác trực tiếp liên quan tới thân cũng như   tới   tâm.   Kinh   Ðại   Niệm   Xứ Mahā-  Satipaṭṭhāna Suttanta (Dīgha Nikāya, 22) là nguồn chính giải  thích  về  cơ  sở  lý  thuyết  của  việc   thực   hành thiền Vipassāna-bhāvanā.

Sīla: Giới, đức hạnh; tránh mọi lời nói và hành động gây thiệt hại cho mình và người khác. Là bậc luyện tập đầu tiên trong ba bậc luyện tập Bát Chánh Ðạo (xem magga). Với một người tại gia, giới được thực hành trong đời sống hàng ngày bằng việc tuân giữ Ngũ giới.

Sotāpanna: người Nhập lưu. Người đã đạt giai đoạn đầu tiên của bậc thánh, và  đã  cảm  nghiệm  Niết-bàn  (xem ariya).

Suta-mayā Paññā: Trí tuệ tiếp nhận, văn tuệ, nghĩa đen là sự hiểu biết do nghe người khác (xemPaññā).

Sutta: Kinh. Bài giảng của Ðức Phật hay một môn đệ chính của Ngài (Sanskrit: sutra)

Taṇhā: Ái dục, tham ái. Nghĩa đen là “thèm khát”. Bao gồm cả sự thèm muốn và đối cực của nó là sự chán ghét. Ðức Phật đã xác định ái dục là nguyên nhân của đau khổ (samudaya-sacca) trong bài giảng đầu tiên của Ngài, “Kinh Khởi Ðộng Bánh Xe Giáo Pháp” (DhammacakkappavattanaSutta). Trong chuỗi nhân duyên (paṭicca saṃuppāda), Ngài giải thích rằng tham ái phát sinh như một phản ứng đối với những cảm giác của thân thể.

Theravāda: Phật giáo nguyên thủy. Dịch sát chữ là “lời giảng của các vị trưởng lão.” Là những lời giảng của Ðức Phật dưới hình thức đã được bảo tồn tại những nước Ðông Nam Á (Miến Ðiện, Sri Lanka, Thái Lan, Lào, Căm Bốt). Thường được công nhận là hình thức giáo lí cổ xưa nhất.

Tipiṭaka: (Sanskrit: Tripitaka) Kinh Tam Tạng. Ba bộ sưu tập các lời giảng dạy của Ðức Phật, đó là:

Vinaya-piṭaka, giới điều, gồm những giới luật về đời sống tu trì; Sutta- piṭaka, Kinh, gồm những bài giảng thuyết;

Abhidhamma-piṭaka, Vi Diệu Pháp, sưu tập những lời giảng dạy cao cấp, nghĩa là những chú giải triết học có hệ thống về Giáo pháp.

Upekkhā: Tâm xả. Sự thản nhiên; tình trạng tâm không vướng mắc tham sân si. Một trong bốn tình trạng thanh tịnh của tâm, một trong bảy yếu tố giác ngộ.

Vedanā: Thọ, cảm thọ, cảm giác. Một trong năm uẩn (khandhā). Ðức Phật mô tả nó có cả khía cạnh tâm và thân; vì thế cảm thọ cống hiến phương tiện để xem xét toàn thể  hiện  tượng  tâm-thân   thể.   Trong   chuỗi   nhân duyên (paṭicca samuppāda), Ðức Phật cắt nghĩa rằng tham ái (taṇhā), nguyên nhân của đau khổ, phát sinh như một phản ứng đối với cảm thọ. Bằng cách học quán sát cảm thọ một cách khách quan, người ta có thể tránh mọi phản ứng mới, và có thể cảm nghiệm trực tiếp trong nội tâm mình thực tại của vô thường. Cảm nghiệm này là cốt yếu để phát triển sự cắt đứt quyến luyến, dẫn tới sự giải thoát của tâm.

Vedanānupassannā: niệm thọ, quán sát các cảm giác trong thân thể (xem satipaṭṭhāna – Tứ niệm xứ).

Viññāṅa: thức, ý  thức,  tri  thức.  Một  trong  năm  uẩn (khandhā).

Vipassāna: Thiền Quán; thiền minh sát; trực giác, nội quan, giúp thanh tẩy tâm; đặc biệt trực giác về bản chất vô thường,  đau  khổ  và  vô  ngã  của  cơ  cấu  tâm  thân thể. Vipassāna-bhāvanā, thiền quán, là sự luyện tập có hệ thống về trực giác qua kĩ thuật suy niệm của việc quán sát thực tại của bản thân bằng cách quán sát những cảm giác nơi thân thể mình.

Yathā-bhūta: Chân tướng, thực chất, dịch sát chữ là “đúng theo bản chất”. Yathā-bhūta-ñānadassana, sự thể hiện chân lý qua việc nhận thức đúng chân tướng của chân lý.

CÁC THUẬT NGỮ PĀLI THƯỜNG DÙNG

 Tam Bảo

–      Buddha: Bậc giác ngộ (Phật)

–     Dhamma: Quy luật tự nhiên, lời dạy của một bậc giác ngộ, con đường giải thoát (Pháp)

–     Sangha: Bất cứ người nào thực hành Dhamma và trở thành một người thánh thiện, sáng suốt (Tăng)

Ba giai đoạn tu tập

–     Sīla: Giới, đạo đức

–     Samādhi: Định, sự tập trung, sự làm chủ tâm trí

–     Paññā: Tuệ, trí tuệ để thanh lọc tâm

Ba gốc rễ của tất cả các bất tịnh trong tâm

–     Rāga / lobha: Ham muốn (tham)

–     Dosa: Ghét bỏ (sân)

–     Moha : Vô minh, thiếu sáng suốt (si)

Bốn Sự Thật Thánh Thiện (Tứ Diệu Đế)

–     Sự thật về khổ

–     Nguyên nhân của khổ (ham muốn)

–     Sự đoạn diệt khổ

–     Con đường dẫn đến sự đoạn diệt khổ

Bát Thánh Đạo

–     Sammā-vācā : Lời nói chân chính (Chánh ngữ)

–     Sammā-Kammanta: Hành động chân chính (Chánh nghiệp)

–     Sammā-ājīva: Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng)

–     Sammā-vāyāma : Nỗ lực chân chính (Chánh tinh tấn)

–     Sammā-sati: Ý thức chân chính (Chánh niệm)

–     Sammā-samādhi: Định chân chính (Chánh định)

–     Sammā-saṅkappa : Suy nghĩ chân chính (Chánh tư duy)

–     Sammā-diṭṭhi: Sự hiểu biết chân chính (Chánh kiến)

–    Kamma: Hành động, đặc biệt là một hành động sẽ gây ảnh  hưởng   cho   tương   lai   của   mình (nghiệp).   Xem saṅkhāra. (Sanskrit karma.)

Ba loại trí tuệ

–     Suta-mayā Paññā: Tuệ thụ nhận, hiểu biết do nghe người khác giảng giải (Văn tuệ)

–      Cintā-mayā Paññā: Tuệ tư duy, hiểu biết do phân tích, lý luận (Tư tuệ)

–     Bhāvanā-mayā Paññā: Tuệ thực chứng, hiểu biết dựa trên kinh nghiệm trực tiếp (Tu Tuệ)

Ba đặc tính căn bản của các hiện tượng

Aniccā: Vô thường

Anattā: Vô ngã

Dukkha : Khổ

Năm tập hợp hình thành con người

–     Rūpa: Vật chất; thân thể vật lý tạo thành  từ các hạt vi  tử (kalāpā) (sắc)

–     Viññāṇa : Sự hay biết (thức)

Saññā : Nhận biết, nhận định (tưởng)

Vedanā: Cảm giác (thọ)

–     Saṅkhāra: Phản ứng, phản ứng tinh thần tạo nghiệp (hành)

Bốn nguyên tố vật chất

–     Paṭhavī: Đất (trạng thái chắc đặc, sức nặng)

–     Āpo: Nước (trôi chảy, kết dính)

–     Vāyo : Gió (khí, sự vận động)

–     Tejo: Lửa (nhiệt độ)

Bốn nguyên nhân sinh khởi của vật chất

–     Thức ăn

–     Môi trường/ khí quyển

–     Phản ứng của tâm trong hiện tại

–     Phản ứng của tâm trong quá khứ

–    Nibbāna : Tịch diệt, thực tại tối hậu vượt ra ngoài thân và tâm (tiếng Sanskrit là Nibbāna, niết bàn)

–     Satipaṭṭhāna:Sự   thiết   lập ý   thức;   đồng   nghĩa với Vipassana

Bốn Satipaṭṭhānas – Bốn lĩnh vực thiết lập ý thức :

–     Kāyānupassanā: Quan sát thân thể

–     Vedanānupassanā: Quan sát các cảm giác của thân

–     Cittānupassanā: Quan sát tâm

–     Dhammānupassanā: Quan sát các nội dung của tâm

Năm chướng ngại hay năm kẻ thù

–     Kāmacchanda: Ham muốn

–     Vyāpāda: Ghét bỏ

–     Thīna-middha: Sự uể oải tinh thần và thể xác

–     Uddhacca-kukkucca: Bồn chồn, bất an

–     Vicikicchā: Nghi ngờ, không chắc chắn

Năm sức mạnh hay năm người bạn

–     Saddhā: Niềm tin

–     Viriya: Nỗ lực

–     Sati: Ý thức

–     Samādhi: Định

–     Paññā: Tuệ

Mười Pāramī hay phẩm hạnh

–     Nekkhamma : Từ bỏ, xuất gia

–     Sīla: Giới hạnh, đạo đức

–     Viriya: Nỗ lực

–     Khanti: Kham nhẫn

–     Sacca : Chân thật

–     Adhiṭṭhāna: Quyết tâm mạnh mẽ

–     Paññā: Trí tuệ

–     Upekkhā: Sự bình tâm

–     Mettā: Tâm từ

–     Dāna: Lòng hảo tâm; đóng góp thiện nguyện

Bốn phẩm chất của tâm thanh tịnh

–     Mettā: Tâm từ (từ)

–     Karuṇā: Lòng thương xót (bi)

–     Muditā: Niềm vui trước hạnh phúc của người khác (hỷ)

–     Upekkhā: Sự bình tâm (xả)

–     Bhavatu sabba maṅgalaṃ: Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc

–     Sādhu, sādhu, sādhu: Lành thay, lành thay, chúng tôi tán thành, chúng tôi cũng cầu chúc như vậy.

Gửi các hành giả đang trên đường tu tập Dhamma, chúc cho quý vị được hạnh phúc!

Hãy giương cao ngọn đuốc Dhamma! Hãy để ngọn đuốc ấy soi sáng cuộc sống hàng ngày của quý vị . Hãy luôn luôn ghi nhớ rằng Dhamma không phải là trốn chạy; đó là một nghệ thuật sống, sống trong an vui và hòa hợp với mình và với tất cả mọi người khác. Vì thế, hãy sống một cuộc đời phù hợp với Dhamma.

Đừng bỏ qua thời tu tập mỗi sáng và mỗi tối. Bất cứ khi nào có thể được, mỗi tuần hãy ngồi Thiền chung với những Thiền sinh Vipassana khác.Tham dự một khóa tu mười ngày mỗi năm. Việc này rất cần thiết để giúp cho quý vị vững vàng, mạnh mẽ.

Với tất cả niềm tin, hãy đối mặt với mọi trở ngại xung quanh một cách can đảm và vui vẻ. Hãy từ bỏ giận dữ và oán ghét, ác ý và hận thù. Hãy phát sinh tình thương và lòng thương xót, đặc biệt là với những người không hiểu Dhamma và đang sống một cuộc đời bất hạnh.

Nguyện cho hành vi phù hợp với Dhamma của quý vị chỉ dẫn cho họ con đường đi đến an vui và hòa hợp. Nguyện cho ánh sáng Dhamma trên khuôn mặt của quý vị thu hút được ngày càng nhiều người đau khổ đến với con đường thật sự hạnh phúc này.Nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, được an vui, được giải thoát.

Với tất cả tâm từ,

S. N. Goenka

 

 

* Bài viết được tổng hợp từ cuốn Cốt Lõi Thiền Vipassana - Thiền Sư U Ba Khin, S.N. Goenka và nhiều tác giả
Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app