Nội Dung Chính
Giáo Án Trường Bộ Kinh
Kinh Đại Thiện Kiến Vương (Mahà Sudassana Sutta)
Xuất Xứ:
Đức Phật đã thuyết giảng Pháp Thoại này cho đại đức ÀNANDA tại UPAVATTANA, ở KUSINÀRÀ, trong rừng SÀLA của dòng họ MALLÀ, giữa hai cây SÀLA – Long Thọ, khi Ngài sắp viên tịch Níp Bàn.
Duyên Khởi:
Đại đức ÀNANDA thỉnh nguyện đức Phật nên lựa chọn một đô thị khác, tốt đẹp và to lớn, để viên tịch. Đức Phật đã kể lại câu chuyện của Đại Thiện Kiến Vương với kinh đô KUSAVÀTI rất huy hoàng tráng lệ của thuở xưa, mà nay chính là kinh thành KUSINÀRÀ.
Chánh Kinh:
Đức Vua Đại Thiện Kiến với kinh đô KUSÀVATI
1. Kinh Đô KUSÀVATI
* Kinh thành KUSÀVATI rất rộng lớn, phía Đông và phía Tây rộng đến mười hai do tuần, còn phía Bắc và phía Nam rộng đến bảy do tuần.
Kinh đô KUSÀVATI rất phồn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, Thiên Chúng sung mãn, thực phẩm phong phú.
Kinh đô KUSÀVATI, ngày cũng như đêm, luôn vang dậy mười loại tiếng:
Tiếng Voi, (2) Tiếng Ngựa, (3) Tiếng Xe, (4) Tiếng Trống Lớn, (5) Tiếng Trống Nhỏ, (6) Tiếng Tỳ Bà, (7) Tiếng Ca Hát, (8) Tiếng Chập Chõa, (9) Tiếng Chuông, (10) Tiếng gọi nhau ăn uống vui chơi.
Kinh đô KUSÀVATI có bảy bức tường thành bao bọc: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh, (5) Một loại bằng san hô, (6) Một loại bằng xa cừ, (7) Một loại bằng mọi thứ báu.
Kinh đô KUSÀVATI có bốn loại cửa: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh. Tại mỗi cửa, có dựng bảy cột trụ, bề cao bằng khoảng ba hay bốn lần thân người:
(1) Một cột trụ bằng vàng, (2) Một cột trụ bằng bạc, (3) Một cột trụ bằng lưu ly, (4) Một cột trụ bằng thủy tinh, (5) Một cột trụ bằng san hô, (6) Một cột trụ bằng xa cừ, (7) Một cột trụ bằng mọi thứ báu.
Kinh đô KUSÀVATI có bảy hàng SÀLA Long Thọ bao bọc: (1) Một hàng bằng vàng, (2) Một hàng bằng bạc, (3) Một hàng bằng lưu ly, (4) Một hàng bằng thủy tinh, (5) Một hàng bằng san hô, (6) Một hàng bằng xa cừ, (7) Một hàng bằng mọi thứ báu.
- Cây SÀLA bằng vàng có thân cây bằng vàng, có lá và trái cây bằng bạc.
- Cây SÀLA bằng bạc có thân cây bằng bạc, có lá và trái cây bằng vàng.
- Cây SÀLA bằng lưu ly có thân cây bằng lưu ly, có lá và trái cây bằng thủy
- Cây SÀLA bằng thủy tinh có thân cây bằng thủy tinh, có lá và trái cây bằng lưu
- Cây SÀLA bằng san hô có thân cây bằng san hô, có lá và trái cây bằng xa cừ.
- Cây SÀLA bằng xa cừ có thân cây bằng xa cừ, có lá và trái cây bằng san hô.
- Cây SÀLA bằng mọi loại báu có thân cây bằng mọi loại báu, có lá và trái cây bằng mọi loại báu.
Khi những hàng cây SÀLA này được gió rung chuyển, một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên. Cũng ví như năm loại nhạc khí, khi được một nhạc sĩ thiện xảo tấu nhạc, phát ra một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly.
2. Vua Đại Thiện Kiến là một vị Chuyển Luân Vương
* Trị vì khắp thiên hạ theo Chánh Pháp, có đủ bảy món báu vật, và Tứ Như Ý Đức.
Bảy món Báu Vật:
Thiên Luân Báu: Có đủ một ngàn căm xe, đầy đủ mọi bộ phận, với vành xe, trục xe. Mỗi khi Thiên Luân Báu lăn đến phương nào, thì thảy đều thuộc lãnh thổ của vua Đại Thiện Kiến, và tất cả mọi nơi ấy đều vâng theo lời giáo huấn của đức Vua mà lo tu tập, thọ trì ngũ giới, và trau giồi những công việc thích nghi. Khi Thiên Luân Báu trở về Kinh Đô, đứng trước Pháp Đình, trên cửa nội cung, như một trang bảo vật, cho nội cung của vua Đại Thiện Kiến.
Voi Báu: Thuần trắng, bảy xứ kiên cường, có thần lực, bay được trên hư không, có tên là
Ngựa Báu: Thuần trắng, đầu và bườm ngựa màu đen, có thần lực, bay được trên hư không, có tên là VALÀHAKA.
Châu Báu: Ngọc Lưu Ly (MANI) thuần chất, trong suốt, có tám mặt, khó dũa mài, thanh tịnh, hoàn hảo mọi phương diện, sáng chói cả ngày và đêm khắp một do tuần.
Nữ Nhân Báu: Khả ái mỹ miều, cử chỉ đoan trang, dung sắc tuyệt mỹ sánh cùng Thiên Sắc, dáng dấp vừa tầm, thân xúc nữ báu êm dịu như nhung, thân nữ báu luôn tỏa mùi thơm chiên đàn, miệng tỏa mùi thơm hoa sen. Nữ báu luôn thức dậy trước và ngủ sau vua Đại Thiện Kiến, mọi hành động luôn làm Vua thỏa thích, yên lành khả ái. Nữ báu không có một tư tưởng nào bất tín với vua Đại Thiện Kiến huống nữa là thân thể, luôn chung thủy.
Cư Sĩ Báu: Chứng được Thiên Nhãn do Nghiệp dị thục sanh và nhờ Thiên Nhãn này có thể thấy chỗ chôn cất châu báu có chủ hay không có chủ. Luôn luôn giúp ích lợi cho Vua được nhiều việc.
Tướng Quân Báu: Đa văn quảng kiến, thông minh sáng suốt, có khả năng khuyến cáo và cố vấn cho Vua những điều lợi ích, cùng ngăn ngừa những điều nguy hại.
Tứ Như Ý Đức:
- Đẹp trai, khả ái, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ thanh lịch, thấy xa hơn mọi người
- Tuổi thọ cao niên hơn mọi người
- Thiểu bệnh, khinh an, thắng xa hơn mọi người.
- Được các Bà La Môn và gia chủ ái kính và yêu mến, như người cha được những con người ái kính, yêu mến.
- Vua Đại Thiện Kiến cho xây dựng thật nhiều hồ sen với đủ các loại hoa sen, hồng liên, bạch liên, thanh liên, huỳnh liên, và tạo đủ các điều kiện cho người dân hưởng thụ được Ngũ Dục Lạc.
- Thiên Chủ SAKKA nói với thiên tử VISSAKAMMA đi xây dựng một lâu đài có tên là DHAMMA, cho vua Đại Thiện Kiến. Lâu đài DHAMMA với bề dài về hướng Đông và hướng Tây đến một do tuần, còn về hướng Bắc và hướng Nam đến nửa do tuần. Nền nhà của lâu đài DHAMMA cao đến ba thân người và làm bằng ba loại gạch: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng lưu ly, (3) Một loại bằng thủy tinh.
Lâu đài DHAMMA có 84,000 cột trụ, được làm bằng bốn loại: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh. Lâu đài DHAMMA có đến bốn loại sàng tọa: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh.
Lâu đài DHAMMA có 24 tầm cấp, được làm bằng bốn loại: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh.
- Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc.
- Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.
- Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy
- Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu
Lâu đài DHAMMA có 84,000 phòng ốc, được làm bằng bốn loại: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh.
- Trong phòng ốc bằng vàng có chỗ nằm bằng bạc được trải ra. Tại cửa phòng ốc bằng vàng, có dựng lên một cây SÀLA bằng bạc, với thân cây bằng bạc, với lá và trái cây bằng vàng.
- Trong phòng ốc bằng bạc có chỗ nằm bằng vàng được trải ra. Tại cửa phòng ốc bằng bạc, có dựng lên một cây SÀLA bằng vàng, với thân cây bằng vàng, với lá và trái cây bằng bạc.
- Trong phòng ốc bằng lưu ly có chỗ nằm bằng ngà được trải ra. Tại cửa phòng ốc bằng lưu ly, có dựng lên một cây SÀLA bằng thủy tinh, với thân cây bằng thủy tinh, với lá và trái cây bằng lưu
- Trong phòng ốc bằng thủy tinh có chỗ nằm bằng san hô được trải ra. Tại cửa phòng ốc bằng thủy tinh, có dựng lên một cây SÀLA bằng lưu ly, với thân cây bằng lưu ly, với lá và trái cây bằng thủy
Trước cửa phòng Lầu Đại Trang Nghiêm, vua Đại Thiện Kiến cho dựng lên một rừng cây SÀLA toàn bằng vàng, và tại đây Vua ngồi an tọa ban ngày.
Lâu đài DHAMMA được hai dãy lan can bao bọc, một dãy bằng vàng, một dãy bằng bạc.
- Lan can bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc.
- Lan can bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.
Lâu đài DHAMMA có hai màn lưới chuông linh, một màn bằng vàng, một màn bằng bạc.
- Màn lưới bằng vàng có chuông linh bằng bạc.
- Màn lưới bằng bạc có chuông linh bằng vàng.
Khi những màn lưới chuông này được gió rung chuyển, một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên. Cũng ví như năm loại nhạc khí, khi được một nhạc sĩ thiện xảo tấu nhạc, phát ra một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly.
Lâu đài DHAMMA luôn chói sáng ngày cũng như đêm. Trước mặt lâu đài được xây dựng một hồ sen có tên gọi là DHAMMA.
Hồ sen DHAMMA với bề dài về hướng Đông và hướng Tây đến một do tuần. Về hướng Bắc và hướng Nam đến nửa do tuần. Hồ sen DHAMMA có đến bốn loại gạch: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh.
Hồ sen DHAMMA có 24 tầm cấp, được làm bằng bốn loại: (1) Một loại bằng vàng, (2) Một loại bằng bạc, (3) Một loại bằng lưu ly, (4) Một loại bằng thủy tinh.
- Tầm cấp bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc.
- Tầm cấp bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.
- Tầm cấp bằng lưu ly có cột trụ bằng lưu ly, có chắn ngang và đầu trụ bằng thủy
- Tầm cấp bằng thủy tinh có cột trụ bằng thủy tinh, có chắn ngang và đầu trụ bằng lưu
Hồ sen DHAMMA được hai dãy lan can bao bọc, một dãy bằng vàng, một dãy bằng bạc.
- Lan can bằng vàng có cột trụ bằng vàng, có chắn ngang và đầu trụ bằng bạc.
- Lan can bằng bạc có cột trụ bằng bạc, có chắn ngang và đầu trụ bằng vàng.
Hồ sen DHAMMA có bảy hàng SÀLA Long Thọ bao bọc: (1) Một hàng bằng vàng, (2) Một hàng bằng bạc, (3) Một hàng bằng lưu ly, (4) Một hàng bằng thủy tinh, (5) Một hàng bằng san hô, (6) Một hàng bằng xa cừ, (7) Một hàng bằng mọi thứ báu.
- Cây SÀLA bằng vàng có thân cây bằng vàng, có lá và trái cây bằng bạc.
- Cây SÀLA bằng bạc có thân cây bằng bạc, có lá và trái cây bằng vàng.
- Cây SÀLA bằng lưu ly có thân cây bằng lưu ly, có lá và trái cây bằng thủy
- Cây SÀLA bằng thủy tinh có thân cây bằng thủy tinh, có lá và trái cây bằng lưu
- Cây SÀLA bằng san hô có thân cây bằng san hô, có lá và trái cây bằng xa cừ.
- Cây SÀLA bằng xa cừ có thân cây bằng xa cừ, có lá và trái cây bằng san hô.
- Cây SÀLA bằng mọi loại báu có thân cây bằng mọi loại báu, có lá và trái cây bằng mọi loại báu.
Khi những hàng cây SÀLA này được gió rung chuyển, một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên. Cũng ví như năm loại nhạc khí, khi được một nhạc sĩ thiện xảo tấu nhạc, phát ra một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly.
Khi lâu đài DHAMMA và hồ sen DHAMMA được xây xong thì vua Ðại Thiện Kiến đã thiết lễ cúng dường cho các vị Sa Môn được tôn kính và các vị Bà La Môn được tôn kính, đủ mọi sự dục lạc cần thiết, và Vua ngự lên lâu đài DHAMMA.
Đức vua Đại Thiện Kiến từ bỏ mọi dục lạc, hướng tâm tu tập, và thân hoại mạng chung
Chính do ba loại Nghiệp: Bố Thí, Tự Điều, và Tự Chế đã làm cho Vua có được đầy đủ thần lực và oai lực ngay kiếp hiện tại.
Sau khi suy nghĩ xong, đức Vua thốt lên lời kệ cảm hứng:
“Hãy dừng lại, tư tưởng dục vọng! Hãy dừng lại, tư tưởng sân hận! Hãy dừng lại, tư tưởng não hại! Đến đây thôi, tư tưởng dục vọng! Đến đây thôi, tư tưởng sân hận!
Đến đây thôi, tư tưởng não hại!”
Tu tập Thiền Chỉ và phát triển Tứ Phạm Trú biến mãn khắp mọi phương.
Từ bỏ mọi tài sản quý báu và khước từ sự thăm viếng của hoàng hậu SUBHADDÀ, đức Vua lìa khỏi cao đường Đại Trang Nghiêm, và đến trú tại khu rừng SÀLA Long Thọ bằng vàng. Đức vua Đại Thiện Kiến nằm xuống, trong dáng điệu con sư tử, về phía bên hữu, một chân đặt dài trên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, hướng tâm về việc mạng Đức Vua dạy bảo hoàng hậu SUBHADDÀ với những lời dạy cuối cùng, khuyên nhũ nên nhận thức và nói lên rằng: “Tất cả mọi sự vật khả ái, khả lạc đều thay đổi, không có thực thể, chịu sự biến hóa. Đại Vương chớ có mệnh chung với tâm quyến luyến chúng. Đau khổ thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến. Đáng trách thay, sự mệnh chung với tâm còn ái luyến. Hãy từ bỏ Ái Dục và chớ có ái luyến với đời sống.”
Không bao lâu, đức vua Đại Thiện Kiến băng hà, với trạng thái như một người ngủ say, tái tục vào Thiện Thú ở cõi Phạm Thiên. Sau khi đã sống 84,000 năm sung sướng của một vị Hoàng Tử, trải qua 84,000 năm của một Phó Vương, trải qua 84,000 năm của một vị Quốc Vương, trải qua 84,000 năm của đời sống người Cư Sĩ, sống Phạm hạnh trong lâu đài DHAMMA, và với Tứ Thần Túc khéo tu tập khi thân hoại mạng chung được thọ sanh vào cõi Phạm Thiên.
Đức Phật nhận diện đức vua Đại Thiện Kiến
- Chính là tiền thân của đức Phật.
- Đức Phật dạy Đại Đức nên nhận biết rằng: “Tất cả Pháp Hữu Vi đều hoại diệt và biến hóa. Các Pháp Hữu Vi là vô thường, không kiên cố, không đáng tin tưởng. Chính như vậy, tất cả các Pháp Hữu Vi cần phải nhàm chán, cần phải thoát ly, cần phải giải thoát chúng.”
- Đức Phật cho đại đức ÀNANDA biết rằng, chính tại KUSINÀRÀ này, mà xưa kia tiền thân đức Phật đã tịch diệt tại đây đến bảy lần, với một kiếp làm vị Chuyển Luân Vương. Và đến nay, ngay hiện tại, đức Phật sẽ quyết định chọn địa điểm này để viên tịch Níp Bàn – là lần thứ tám mà Ngài sẽ bỏ thân mạng tại nơi đây.
Kết Luận:
Sau khi thuyết giảng Pháp Thoại xong, đức Thiện Thệ nói lên bài kệ: “Tất cả Pháp Hữu Vi, thật sự là vô thường, Khởi lên rồi diệt mất, thường tánh là như vậy. Chúng được sanh khởi lên, rồi chúng lại hoại diệt, Hạnh phúc thay, khi chúng được tịnh chỉ an lạc.”