* Thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp

Thiện-nghiệp có 4 loại:

1- Dục-giới thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm.

2- Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm.

3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.

4- Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.

Trong quyển sách nhỏ này chỉ giảng giải về dục-giới thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm mà thôi. Còn sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm, vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm và siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm không được đề cập đến trong quyển sách nhỏ này.

Dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp (mahākusakakamma) trong 8 đại-thiện-tâm.

Đại-thiện-tâm (Mahākusalacitta) có 8 tâm

1- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

2- Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

3- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

4- Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

5- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

6- Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

7- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

8- Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ. 

Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

Tám đại-thiện-tâm chia theo trí-tuệ có 2 loại:

– 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

– 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.

Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết tự trọng, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý và tạo 10 phước-thiện puñña-kriyāvatthu.

* Đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10 loại đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý như sau:

– Đại-thiện-nghiệp được tạo bằng thân gọi là thân đại-thiện-nghiệp có 3 loại:

  • Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh. 
  • Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp. 
  • Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.

– Đại-thiện-nghiệp được tạo bằng khẩu gọi là khẩu đại-thiện-nghiệp có 4 loại:

  • Đại-thiện-nghiệp không nói-dối. 
  • Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ. 
  • Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục. 
  • Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.

– Đại-thiện-nghiệp được tạo bằng ý gọi là ý đại-thiện-nghiệp có 3 loại:

  • Đại-thiện-nghiệp không tham lam của cải người khác.
  • Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác.
  • Đại-thiện-nghiệp chánh-kiến thấy đúng biết đúng theo chánh-pháp.

* Phước-thiện puññakriyāvatthu đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu đó là:

1- Dānakusala: Phước-thiện bố-thí.

2- Sīlakusala: Phước-thiện giữ-giới.

3- Bhāvanākusala: Phước-thiện hành-thiền.

4- Apaccāyanakusala: Phước-thiện cung-kính.

5- Veyyāvaccakusala: Phước-thiện hỗ-trợ.

6- Pattidānakusala: Phước-thiện hồi-hướng.

7- Pattānumodanākusala: Phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện.

8- Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe chánh-pháp.

9- Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết chánh-pháp.

10- Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến thấy đúng, biết đúng nghiệp là của riêng mình.

Quả của 10 đại-thiện-nghiệp

* Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý cho quả trong hai thời-kỳ:

– Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

– Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

a-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)

Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm, đã tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 9 quả-tâm đó là 8 đại-quả-tâm và một suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, 9 quả-tâm này gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

Tám đại-quả-tâm này là quả của 8 đại-thiện-tâm, có mỗi quả tâm tương xứng với 8 đại-thiện-tâm về đồng sinh với thọ, về hợp với trí-tuệ, về tác-động như sau: 

Đại-quả-tâm có 8 tâm:

1- Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

2- Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

3- Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

4- Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

5- Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

6- Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí tuệ, cần tác-động.

7- Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

8- Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

Tám đại-quả-tâm này chia theo trí-tuệ có 2 loại tâm:

– 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ.

– 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ.

– Nếu có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthu-rūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người tam-nhân vốn dĩ có trí-tuệ.

Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông thế-gian (lokiya abhiññā).

Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân cao thượng trong Phật-giáo.

– Nếu có 1 trong 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthu-rūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người nhị-nhân vốn dĩ không có trí-tuệ. 

Nếu người nhị-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào cả. 

Nếu người nhị-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào cả.

– Nếu 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp bậc thấp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người vô-nhân cõi dục-giới (sugati-ahetuka-puggala) đui mù, câm điếc,… từ khi đầu thai làm người.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người vô-nhân cõi dục-giới đui mù, câm điếc, tật nguyền, … hiểu biết bình thường trong cuộc sống hằng ngày, không học hành được.

Tuy nhiên nếu người ấy đui mù, câm điếc, tật nguyền trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp hiện tại do ác-nghiệp nào cho quả, thì không thể gọi là người vô-nhân cõi dục-giới được, bởi vì có số trẻ đui mù, tật nguyền có năng khiếu đặc biệt.

* Hoặc sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam, vị thiên-nữ thuộc về hạng tam-nhân có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời; hoặc vị thiên-nam, vị thiên-nữ thuộc về hạng nhị-nhân có oai lực kém, có hào quang không rộng trong 6 cõi trời dục-giới, thậm chí cũng có vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ thuộc về hạng vô-nhân cõi thiện-giới trên mặt đất (bhummaṭṭha-devatā) thuộc về cõi Tứ Đại-thiên-vương bậc thấp.

b-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, là hạng người tam-nhân, người nhị-nhân, hoặc là vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân, hoặc hạng vô-nhân cõi thiện-giới nào có một quả-tâm nào trong 9 dục-giới quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) một sát-na-tâm xong, rồi tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính dục-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga-citta) làm phận sự hộ kiếp, giữ gìn kiếp người hoặc kiếp vị thiên-nam, vị thiên-nữ ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính dục-giới quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp người hoặc kiếp vị thiên-nam, vị thiên-nữ ấy.

Trong kiếp hiện-tại đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, gồm có 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm gồm có 16 quả-tâm, là quả của đại-thiện-nghiệp tiếp xúc với những đối-tượng tốt đáng hài lòng tùy theo mỗi hạng người trong cõi người và tùy theo mỗi hạng thiên-nam hoặc thiên-nữ trên cõi trời dục-giới ấy.

Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm:

1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt.

2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh hay.

3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm.

4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon.

5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc tốt, đáng hài lòng.

6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt.

7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) hài lòng ít.

8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

Đó là 8 thiện-quả vô-nhân-tâm, là quả của đại-thiện-nghiệp tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng, tâm an-lạc tùy theo mỗi hạng người hoặc tùy theo mỗi hạng vị thiên-nam, vị thiên-nữ trong cõi trời dục-giới.

* Quả của 10 phước-thiện puññakriyāvatthu

Phước-thiện puññakriyāvatthu có 10 loại là phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, phước-thiện cung-kính, phước-thiện hỗ-trợ, phước-thiện hồi-hướng, phước-thiện hoan-hỷ, phước-thiện nghe pháp, phước-thiện thuyết-pháp, phước-thiện chánh-kiến.

Trong 10 phước-thiện này, người thiện tạo mỗi phước-thiện cần phải trải qua ba thời-kỳ tác-ý:

1- Pubbacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy (có thời gian lâu hoặc mau không nhất định).

2- Muñcacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện ấy (trong thời hiện-tại).

3- Aparacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy (với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm).

Mỗi thời-kỳ tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tạo phước-thiện nào có vai trò quan trọng thành tựu mỗi đại-thiện-nghiệp như sau:

Năng lực muñcacetanā

* Thời-kỳ muñcacetanā: Tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện nào được thành tựu đại-thiện-nghiệp như sau:

– Nếu người thiện nào tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammas-sakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đủ tam-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành tihetukakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp.

– Nếu người thiện nào tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết nghiệp là của riêng mình, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có nhị-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ), nên phước-thiện ấy trở thành dvi-hetukakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.

Năng lực pubbacetanā và aparacetanā

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp và nhị-nhân đại-thiện-nghiệp phân loại theo năng lực tác-ý trong thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, hiều tháng, thậm chí nhiều năm, nên mỗi loại đại-thiện-nghiệp có hai bậc:

– Ukkaṭṭhakusala: Đại-thiện-nghiệp bậc cao.

– Omakakusala: Đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

1- Ukkaṭṭhakusalakamma: Đại-thiện-nghiệp bậc cao như thế nào?

Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào, v.v…trong thời-kỳ pubba-cetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn; và nhất là trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn; thì người thiện ấy đã tạo được phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy, v.v… trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao nên có 2 loại đại-thiện-nghiệp bậc cao là:

– Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.

– Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.

2- Omakakusalakamma: Đại-thiện-nghiệp bậc thấp như thế nào?

Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào, v.v…trong thời-kỳ pubba-cetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm và nhất là trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn; làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì người thiện ấy đã tạo được phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy, v.v… trở thành omaka-kusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nên có 2 loại đại-thiện-nghiệp bậc thấp là:

– Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

– Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

Tuy nhiên, trong 2 thời-kỳ tác-ý (cetanā): thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước-thiện ấy và thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, để quyết định phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp; thì thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi có vai trò quan trọng để quyết định phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp, hơn là thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì chưa thành tựu phước-thiện ấy.

Thật vậy, dù cho thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ trong phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, không làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy vẫn trở thành ukkaṭṭhakusala-kamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.

Dù cho thời-kỳ pubbacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy trở thành omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

Cho nên, thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm có tầm quan trọng quyết định đại-thiện-nghiệp ấy trở thành loại ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc loại omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

 

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app