*. Bất-thiện-nghiệp (Akusalakamma)
Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm tạo 10 bất-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) đó là 8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm như sau:
Tham-tâm có 8 tâm:
1- Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
2- Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, cần tác-động.
3- Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
4- Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.
5- Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
6- Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, cần tác-động.
7- Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.
8- Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.
Sân-tâm có 2 tâm:
1- Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động.
2- Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.
Si-tâm có 2 tâm:
1- Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi.
2- Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.
Người ác không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm tạo 10 ác-nghiệp là 3 thân ác-nghiệp, 4 khẩu ác-nghiệp, 3 ý ác-nghiệp.
Quả của 10 ác-nghiệp
Ác-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) cho quả trong hai thời-kỳ:
– Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
– Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.
a-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)
Người ác nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, nên phạm điều-giới nào, tạo ác-nghiệp ấy.
– Sau khi người ác ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy trong 11 ác-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có một quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là ác-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).
– Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra thường có tham-tâm thèm khát, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.
– Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, thường bị thiêu đốt, hành hạ, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.
– Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì sinh làm loài súc-sinh có tính si-mê, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.
b-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (Pavattikāla) kiếp hiện-tại
Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, làm chúng-sinh nào trong cõi địa-ngục, hoặc cõi a-su-ra, loài ngạ-quỷ, hoặc loài súc-sinh với suy-xét-tâm nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm xong, liền tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga-citta) làm phận sự hộ kiếp, bảo hộ, giữ gìn kiếp chúng-sinh ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, và cuối cùng cũng chính suy-xét-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp chúng-sinh ấy trong cõi ác-giới ấy.
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, của chúng-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), ác-nghiệp trong 12 ác-tâm có cơ hội cho quả có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc với các đối-tượng xấu trong cuộc sống hằng ngày đêm.
Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm có 7 tâm:
1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp thấy đối-tượng sắc xấu.
2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp nghe đối-tượng âm-thanh dở.
3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp ngửi đối-tượng hương hôi thối.
4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp nếm đối-tượng vị dở. 5-Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ là quả của ác-nghiệp xúc-giác đối-tượng xúc thô cứng.
6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu.
7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp suy xét 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu.
Đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả-tâm của ác-nghiệp trong 12 ác-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng xấu.
Paṭisandhicitta, bhavaṅgacitta, cuticitta
Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) suy-xét-tâm nào đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm loại chúng-sinh nào trong cõi ác-giới chỉ có một sát-na-tâm, liền tiếp theo sau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga-citta) làm phận sự hộ kiếp, giữ gìn bảo hộ kiếp chúng-sinh ấy cho đến mãn kiếp, rồi cũng chính suy-xét-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.
Như vậy, mỗi kiếp chúng-sinh có tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta), hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta), và tử-tâm (cuticitta) cùng một loại quả-tâm giống nhau, nhưng chỉ có khác nhau trải qua ba giai đoạn thời gian mà thôi.
Tuy nhiên, tử-tâm (cuticitta) kiếp hiện-tại với tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) kiếp sau là 2 quả-tâm hoàn toàn khác nhau, bởi vì hai kiếp chúng-sinh khác nhau.
Tóm lại, trong cuộc sống của mỗi người trong đời có điều cần thiết nên biết đó là biết ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp, để biết ghê-sợ tội-lỗi nên không dám tạo ác-nghiệp nào dù nhẹ; và điều cần thiết nên tin, đó là tin nghiệp và quả của nghiệp, để biết hổ-thẹn tội-lỗi nên không dám tạo ác-nghiệp nào dù nhẹ, bởi vì ác-nghiệp ấy là của riêng mình.