Phân loại đại-thiện-nghiệp theo ukkaṭṭhakusalakamma và omakakusalakamma
Phân loại tihetukakusalakamma và dvihetuka-kusalakamma theo ukkaṭṭhakusalakamma và omakakusalakamma có 4 bậc như sau:
* Tihetukakusalakamma có 2 bậc:
1- Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
2- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
* Dvihetukakusalakamma có 2 bậc:
1- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
2- Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi đại-thiện-nghiệp có tầm quan trọng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người hoặc làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, của loài người hoặc của chư vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ.
Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp
Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp và nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp gồm có 4 bậc như sau:
1-Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
2- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
3- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.
4- Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Paṭisandhikāla và Pavattikāla
Đại-thiện-nghiệp có 4 loại là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao và nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi bậc có cơ hội cho quả trong hai thời-kỳ:
– Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
– Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
Đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai làm người, có 3 hạng người trong đời này, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, cũng có 3 hạng chư-thiên.
Mỗi hạng người, mỗi hạng thiên-nam, hạng thiên-nữ có khả năng khác nhau do quả của mỗi đại-thiện-nghiệp như sau:
1- Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao
Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong 2 thời-kỳ:
– Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
– Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
a-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)
Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, …
Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy vốn có trí-tuệ.
– Nếu người tam-nhân ấy có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông (lokiya abhiññā).
– Nếu người tam-nhân ấy có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
b-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (Pavattikāla) kiếp hiện-tại
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, có 16 quả-tâm đó là:
– Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 quả-tâm và
– Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.
* Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 tâm
Hữu-nhân đại-quả-tâm đó là đại-quả-tâm có 8 tâm mà mỗi tâm tương xứng với mỗi tâm trong 8 đại-thiện-tâm như sau:
1- Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
2- Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
3- Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
4- Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
5- Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
6- Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
7- Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
8- Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
* Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm
Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm:
1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt.
2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh hay.
3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm.
4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon.
5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc an-lạc, đáng hài lòng.
6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt.
7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt.
8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của đại-thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân trên 1 trong 6 cõi trời dục-giới. Và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, gồm có 16 quả-tâm là 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy, hoặc của vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trong cõi trời dục-giới ấy.
2- Tihetuka-omakakusalakamma: Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp với
3- Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao
– Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với
– Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong hai thời-kỳ:
– Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
– Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
a-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)
Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền,…
Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāva-rūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadaya-vatthurūpa: sắc-pháp là nơi phát sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.
– Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào cả.
– Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
b-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (Pavattikāla) kiếp hiện-tại
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, có 12 quả-tâm đó là:
– Hữu-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ, có 4 quả-tâm và
– Thiện-quả vô-nhân-tâm, có 8 quả-tâm.
Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên 1 trong 6 cõi trời dục-giới. Và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, gồm có 12 quả-tâm là 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng không tốt không xấu trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người nhị-nhân ấy trong cõi người, hoặc của vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân ấy trên cõi trời dục-giới ấy.
Nhận xét về tihetuka-omakakusalakamma với dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma
Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, không đủ năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) để có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ nên bị tuột xuống tương đương với dvihetuka-ukkaṭṭhakusala-kamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) là đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người thuộc về hạng người dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân từ khi tái-sinh đầu thai làm người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới.
4- Dvihetuka-omakakusalakamma: Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp
Dvihetuka-omakakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong hai thời-kỳ:
– Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
– Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
a-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)
Người thiện nào đã tạo phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền,… Sau khi người thiện ấy chết, nếu nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati ahetukapuggala) là người đui mù, câm điếc, tật nguyền,… từ khi đầu thai trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người vô-nhân ấy vốn là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, … chỉ biết thông thường trong cuộc sống hằng ngày.
Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân trong nhóm bhummaṭtha-devatā: chư thiên ở trên mặt đất thuộc về cõi trời Tứ Đại-thiên-vương.
b-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (Pavattikāla) kiếp hiện-tại
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả chỉ có 8 thiện quả vô-nhân-tâm mà thôi, tiếp xúc với các đối-tượng tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.
Tuy nhiên, nếu đứa trẻ ấy bị đui mù, câm điếc tật nguyền trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, do ác-nghiệp nào cho quả thì không thể gọi là người vô-nhân cõi thiện giới được, bởi vì, có số đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt.
Năng lực của hai thời-kỳ tác-ý
Số đông người cùng chung tạo phước-thiện bố-thí, trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện bố-thí khác nhau như sau:
* Số người nào tạo phước-thiện bố-thí ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đủ 3 thiện nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si, nên phước thiện bố-thí ấy trở thành tihetukakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp.
* Số người nào tạo phước-thiện bố-thí ấy trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có 2 thiện nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si, nên phước-thiện bố-thí ấy trở thành dvi-hetukakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.
Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì muñca-cetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm khi đang tạo phước-thiện bố-thí khác nhau.
Tuy có số người đã tạo tihetukakusalakamma, dvihetukakusalakamma giống nhau, nhưng trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện bố-thí ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm khác nhau như sau:
* Số người sau khi tạo phước-thiện bố-thí ấy xong rồi, trong thời-kỳ aparacetanā, mỗi khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy liền phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan-hỷ, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, nên phước-thiện bố-thí ấy trở thành ukkaṭṭha-kusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.
* Số người sau khi tạo phước-thiện bố-thí ấy xong rồi, mỗi khi nhớ tưởng đến phước-thiện ấy liền phát sinh đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.
Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi khác nhau.
Cho nên, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp-hiện-tại khác nhau như vậy.
Nhận xét về 3 hạng người trong đời
Trong đời hiện hữu có 3 hạng người là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala), hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala), hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) trong kiếp hiện-tại đều là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm mà mỗi người đã tạo trong kiếp quá-khứ.
* Tihetukapuggala: Hạng người tam-nhân là người khi tái-sinh với đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên có đủ ba thiện-nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si từ khi tái sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người tam-nhân vốn dĩ có trí-tuệ, nếu người tam-nhân ấy có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép-thần-thông (lokiya abhiññā).
Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
* Dvihetukapuggala: Hạng người nhị-nhân là người khi tái-sinh với đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ, nên chỉ có 2 nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si, từ khi tái-sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người nhị-nhân vốn dĩ không có trí-tuệ, nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào.
Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì cũng không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
* Sugati-ahetukapuggala: Hạng người vô-nhân cõi thiện-giới là người khi tái-sinh với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm, từ khi tái sinh đầu thai làm người bị đui mù, câm điếc, ngu-muội.
Khi sinh ra đời lúc trưởng thành là người đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê, … biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.
Như vậy, 3 hạng người là người tam-nhân, người nhị-nhân, người vô-nhân cõi thiện-giới đều là do quả của đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm của mỗi hạng người khác nhau.
Cho nên, mỗi hạng người đang hiện hữu trong cõi đời này đều là do đại-thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp của mỗi người mà thôi. Chắc chắn không phải là số-mệnh hoặc định-mệnh nào cả, không một ai có khả năng an bài mỗi số-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ trong ba giới bốn loài chúng-sinh.
Bảng tóm lược quả của tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp, quả của nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau và trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại.
Đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp | Thời-kỳ tái-sinh | Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh |
1- Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao | 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ | 8 đại-quả-tâm + 8 thiện-quả vô-nhân-tâm |
2- Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp + nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao | 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ | 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ + 8 thiện-quả vô-nhân-tâm |
3- Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp | 1 suy-xét-tâm thọ xả là thiện-quả vô-nhân-tâm | 8 thiện-quả vô-nhân-tâm |
Tóm lại, nhiều người cùng nhau làm chung phước-thiện nào trải qua ba thời-kỳ tác-ý: pubbacetanā, muñcacetanā, apracetanā khác nhau, tạo đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm khác nhau, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, khác nhau như sau:
* Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau sinh làm hạng người tam-nhân. Và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, gồm có 16 quả-tâm là 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm.
* Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này có cơ hội cho quả tương đương với nhau trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau sinh làm hạng người nhị-nhân. Và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, gồm có 12 quả-tâm là 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm.
* Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau sinh làm hạng người vô-nhân trong cõi thiện-giới. Và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại, có 8 quả-tâm là 8 thiện-quả vô-nhân-tâm.
Tuy nhiều người cùng làm chung phước-thiện giống nhau, nhưng có tác-ý trong 3 thời-kỳ: pubbacetanā, muñcacetanā, apracetanā khác nhau, nên tạo đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm khác nhau, tạo đại-thiện-nghiệp có 4 loại khác nhau, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có 3 hạng người khác nhau là hạng người tam-nhân, hạng người nhị-nhân, hạng người vô-nhân cõi thiện-giới khác nhau như vậy.
Đức-Phật dạy nghiệp và quả của nghiệp rằng:
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃvā, tassa dāyādo bhavissāmi.”
Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.