HƯỚNG DẪN HÀNH HƯƠNG VỀ XỨ PHẬT
PHẦN III: BỐN NƠI DIỄN RA ĐIỀU THẦN DIỆU
2. Sankasia, Nơi Đức Phật Hạ Thế từ Cõi Trời Đao Lợi
2.1 Cách để Đi Đến Nơi
Sankasia nằm trong ngôi làng Sankisia-Basantapur huyện Farrukhabad, bang Uttar Pradesh, vị trí giáp giới của 3 huyện lỵ là Farrukhabad, Etah và Mainpuri. Từ thủ đô Delhi, cách thực tế nhất để đến thăm Sankasia là đi bằng tàu tốc hành Shatabdhi express từ Delhi đến Etawah, tàu đến đó khoảng 10:30 sáng và chuyển qua xe khách. Sau khi dùng bữa trưa, lập tức lên đường đi qua Kishni-Bewar-Muhammadabad để đến Sankasia khoảng 3 giờ chiều. Sau khi thăm viếng Sankasia, chúng ta phải lên đường đi qua Chhibramau-Kannauj để đến Kanpur.
Khoảng cách từ Sankasia đến Kanpur là khoảng 220 km và tổng thời gian xe chạy 5 tiếng đồng hồ. Cuối cùng, đến khách sạn ở Kanpur khoảng 10:00 đêm.
2.2 Ý Nghĩa Tôn Giáo
Theo Luận giảng kinh Pháp Cú, Phần XIV, 2, sau khi Đức Phật đã ở qua hết mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 7 ở cõi trời Đao Lợi (Tavatimsa) để thuyết giảng Vi Diệu Pháp cho mẹ Người và chư thiên, Người bảo vua trời Đế-Thích (Sakka) về ý định quay về trái đất của mình. Truyền thuyết nói rằng, Vua trời Đế-Thích đã tạo ra ba cầu thang quý báu bằng vàng, bằng bạc và bằng ngọc bảo, từ đỉnh núi Tu-di (Sumeru) đến cổng thành Samkasia. Bên phải là thang vàng dành cho các vị thần, chư thiên devas, bên trái là thang bạc dành cho Phạm Thiên Brahma và tùy tùng của Ngài, và chính giữa là Thang Ngọc dành cho Đức Phật. Khi Đức Phật vừa đi xuống bằng cầu thang ngọc, những vị chư thiên và Phạm Thiên tôn kính đi hai bên khi Người hạ thế và đặt chân đến tận cổng thành Sankasia. Vì sự kiện thần diệu này, đã được chứng kiến bởi đám đông dân chúng, nên Sankasia đã trở thành một thánh tích Phật giáo và nhiều bảo tháp stupas và tu viện đã được xây lên ở đây.
2.3 Bối Cảnh Lịch Sử (5), (6), (27)
Vua Asoka đã viếng thăm Sankasia vào năm 249 trước Công Nguyên, là một phần trong chuyến hành hương đến tất cả những thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ. Theo ngài Pháp Hiển, vua Asoka đã xây dựng một đền thờ ngay tại chỗ Đức Phật đặt chân xuống đất. Phía sau đền thờ, nhà vua dựng một cột đá cao 18.3 m với đầu sư tử được gắn ở trên và đặt những tượng Phật trên 4 mặt cột đá. Ngài Pháp Hiển cũng chứng kiến những bảo tháp stupas khác và những tu viện với khoảng 1.000 Tăng và Ni đang tụ tập. Khi ngài Huyền Trang đến đây vào năm 636 sau Công Nguyên, ngài đã chứng kiến một khu Tịnh Xá (làm chỗ ở của Tăng đoàn) được xây bằng một kiến trúc rất đẹp, trong đó có khoảng 100 Tăng sĩ và những cư sĩ Phật giáo. Ngài cũng thấy Trụ Đá Asoka cao khoảng 21 m với những hình điêu khắc xung quanh bốn mặt trụ đá và ngài cũng có ghi chép lại một số bảo tháp khác. Ngoài những ghi chép lịch sử của những nhà hành hương Trung Hoa ra, lịch sử của Sankasia chỉ là trang giấy trắng suốt 1.200 năm cho đến khi ngài Sir Cunningham xác định được Sankasia nằm trong ngôi làng Sankisa-Basantapur ngày nay thuộc huyện Farrukhabad, bang Uttar Pradesh. Ngôi làng hiện tại nằm trên một bình nguyên cao khoảng 12.2 m, trong chu vi 457 m x 305 m hay khoảng 14 hecta.
2.4 Môi Trường Thời Ban Sơ Của Sankasia
Ngày nay, Sankasia là một trong những nơi thánh địa xa xôi và chậm phát triển nhất toàn Ấn Độ, như là một tiếng khóc dài từ thời Đức Phật, lúc bấy giờ được gọi là “thành phố Sankasia”. Khi một số người Nhật Bản thăm viếng Ấn Độ đã hỏi Thủ Tướng Nehru nơi nào là vùng Phật giáo nghèo nhất Ấn Độ, ông trả lời rất nhanh: “Sankasia!”. Tình trạng nơi này đã được cải thiện đôi chút khi bà Ms Mayawati, một Phật tử trở thành Thống Đốc ban Uttar Pradesh vào tháng 5, 2007 sau khi trước kia đã đảm nhận vị trí này trong một thời gian ngắn 2002-2003. Ngày nay, đường xá trở nên tốt hơn và có 1 khách sạn được xây lên để cho những du khách đến Sankasia nghỉ lại.
Tác giả đã viếng thăm Sankasia 10 năm trước. Cảm thấy rất ấn tượng với môi trường còn ‘ban sơ’ của vùng này, tác giả đã quyết định hướng dẫn những đoàn hành hương từ Malaysia đến chiêm bái, mặc dù ban đầu rất nhiều người phản đối việc đến nơi hoang sơ, hoang vắng này. Ban đầu, chuyến đi phải mất cả 1 ngày và đến được Sankasia vào buổi chiều. Sau đó phải lên đường để đi Kanpur hoặc Lucknow mới đến được khách sạn sau nửa đêm. Ngày nay, có Chùa Miến Điện (Burmese Temple) đã được xây vào năm 2004 và hòa thượng Sayadaw U Nanda đã mời chúng tôi nghỉ lại qua đêm thay vì phải vất vả lên đường vào buổi chiều tối. Thật là hữu duyên chúng ta có nơi tá túc qua đêm và được biết đến hòa thượng Sayadaw U Nanda và được lợi ích học hỏi từ kiến thức sâu rộng của ngài về lịch sử Sankasia. Ngày nay, nhiều người hành hương đã đến viếng thăm vùng Sankasia giàu có về di sản thiêng liêng Phật giáo này.
2.5 Những Điểm cần Thăm Viếng (5),(16), (27)
1) Trụ Đá Asoka (bị gãy) Với Đầu Con Voi
Biểu tượng Con Voi được gắn trên đầu các trụ đá tưởng niệm là một di tích quan trọng vào thế kỷ 3 trước Công Nguyên. Nó được bảo tồn trong một khu có hàng rào kín. Gần đó, bên dưới một bóng cây, có một đền thờ nhỏ trong đó có một tượng Phật đứng, hai bên là các Phạm Thiên và vua trời Đế Thích để miêu tả sự quay về trái đất của Đức Phật từ cõi trời. (Hình 37, 38).
2) Di Tích Nơi Đức Phật Đặt Chân xuống Trái Đất
Cách Trụ Đá Asoka khoảng 20m về phía Nam, là một khu mô đất của một công trình được xây bằng toàn gạch cứng. Đó từng là một công trình Phật giáo. Theo Huyền Trang, sau khi những cái thang Đức Phật dùng để bước xuống mặt đất đã biến mất, những hoàng tử láng giềng đã xây dựng lên một nền móng dựa vào vị trí của nền móng chỗ ba cái thang đó. Trên đó, có ngôi chùa được xây (Hình 39, 40) và gần sát bên là một cột đá cao 21m, được dựng lên bởi Vua Asoka. Sau khi Phật giáo đã suy vong ở Ấn Độ, ngôi chùa này cũng không tránh được số phận chung của tất cả những công trình Phật giáo khác, và đã trở thành tàn tích. Trên đỉnh của nền móng này, hiện nay là một đền thờ nhỏ được xây lên để thờ vị nữ thần Hindu Visharidevi. Người ta tin rằng, Đức Phật đã đặt chân xuống tại nơi đây ở Sanksia khi Người trở về từ cõi trời Đao Lợi. (Hình 37).
3) Tu Viện (chùa) Miến Điện và Tích Lan
Tu sĩ Phật giáo đầu tiên đến cư ngụ ở Sankasia là cố Đại Đức Vijaya Soma đến từ Tích Lan, ngài đến để lập một ngôi trường học ở đây. Thật là xúc động khi đến thấy được hai ngôi tự viện Phật giáo ở vùng Sankasia xa xôi hẻo lánh này. Tu viện Miến Điện được khai trương vào năm 2000 và tu viện Tích Lan thì được xây dựng xong vài năm sau đó. Những người hành hương đến Sankasia nên đến viếng thăm hai ngôi tu viện này để cúng dường, tỏ lòng thành kính và bái phục những vị Tỳ kheo ở đây, sự có mặt của các ngài làm tăng phần thiêng liêng ở nơi thánh tích xa xôi này.
2.6 Dân Số Phật Giáo ở Sankasia
Theo HT. Sayadaw U Nanda ở Chùa Miến Điện nói trên, Đức Phật đã hạ thế, từ cõi Trời, đặt chân xuống cổng thành sau Hạ An Cư lần thứ 7 của Người (cách đây khoảng 2600 năm). Một nhóm những nhà quý tộc thuộc dòng họ Thích Ca đã đến đây để chứng kiến cảnh thần diệu này và sau đó họ ở lại Sankasia luôn. Sau khi tay Vua hung bạo Vidhadabu tấn công kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) và tàn sát những người dòng họ Thích Ca, nhiều người đã chạy trốn qua Ấn Độ và cũng trở thành những di dân nhập cư đến Sankasia. (Chú Giải 11).
Ngày nay, có khoảng 250 ngàn người hậu duệ đang sinh sống quanh những huyện lỵ của Sankasia. Mỗi năm vào dịp Lễ Pavarana (Lễ Tự Tứ) vào ngày Trăng Tròn của tháng Mười, đông đúc những Phật tử tại địa phương tập trung về Sankasia để tham gia lễ hội.
Vào đầu thế kỷ thứ 5 sau CN, khi ngài Pháp Hiền đến ở Sankasia, ngài đã nghe được chuyện xích mích giữa những Bà-la-môn và những Sa-môn (Sramanas), tức là những Tỳ kheo, về những quyền sử dụng đất đai ở Sankasia. Theo ngài ghi chép lại, thì những Tỳ kheo đã thua kiện. Sau đó cả hai bên đều nhiệt huyết với lời thề rằng, nếu những đất đai này thật sự thuộc về việc sử dụng của những ‘Sa-môn’ Phật giáo, sẽ có điều siêu nhiên xảy ra để minh chứng cho sự thật đó. Lời thề vừa nói ra, tượng Sư Tử trên đầu Trụ Đá Asoka phát ra một tiếng gầm của sư tử. Chứng kiến điều thần diệu này, bên các Bà-la-môn trở nên sợ hãi, cuối đầu chấp nhận và rút lui khỏi cuộc tranh chấp.
Tuy nhiên, có vẻ như lịch sử sau đó đã khác và hình như những Bà-la-môn lại tiếp tục tranh chấp và họ đã thành công trong việc đuổi những Tỳ kheo ra khỏi khu cuộc đất đó. Bởi vì vào thời ngài Huyền Trang thăm viếng, ngài đã ghi lại như sau: “Chỉ có 4 ngôi tu viện với khoảng 1.000 tu sĩ của trường phái Sammitiya (Chánh Lượng Bộ). Có 10 đền thờ thần Deva, nơi những môn đồ của nhiều giáo phái khác nhau đang sống. Tất cả họ đều tôn thờ và trì chú theo Mahesvara”- (Hán Việt đọc Mahesvara là: Ma hề Thủ La Thiên Vương).
Vì vậy, có vẻ như từ thời kỳ đầu trước khi ngài Huyền Trang thăm viếng, những Phật tử ở Sankasia, phần nhiều là những người di trú đến từ dòng họ Thích Ca, đã cư ngụ ở những ngôi làng xung quanh. Nhiều trong số họ đều tham dự Lễ Tự Tứ như là một lễ tết hàng năm của họ tộc mình. Tuy nhiên họ cũng không biết rành rẽ về sự liên quan về mặt lịch sử của họ đối với Phật giáo Ấn Độ (Phật Thích Ca). HT. Sayadaw U Nanda, một người cũng thông thạo tiếng Hindu, đã bắt đầu những lớp học vào những ngày Chủ Nhật để dạy cho thế hệ trẻ về nguồn gốc tổ tiên và tôn giáo gốc của họ.
Chú Giải 11:
Cuộc Di Tản Của Những Người Dòng Họ Thích Ca (Sakya) Qua Ấn Độ.
Khi vua Vidudabha tàn sát Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), nhiều người dòng họ Thích Ca đã trốn khỏi vương quốc Kosala, chạy về phía Nam qua Ấn Độ đến Sankasia (bang Uttar Pradesh ngày nay). Như đã nói trên, trước đó đã lâu (cách đây 2.600 năm), đã có một nhóm người dòng họ Thích Ca đã đến đây, để chứng kiến cảnh thần diệu Đức Phật hạ thế từ cõi Trời, sau đó họ ở lại Sankasia luôn. Những người tỵ nạn sau này chạy giặc từ cuộc tàn sát ở Kapilavatthu đến đây đã làm cho dân số của những người Thích Ca tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, những người dòng họ Thích Ca không phải là những người di trú đến nơi duy nhất này từ kinh thành Kapilavatthu. Theo ghi chép trong quyển Đại Sử (Mahavamsa viii, 18), những nhà tiên tri đã tiên báo cho Sakka Pandu, một người bà con của Đức Phật và là con trai của Vua Amitodana (Hộc Phạn Vương) về tương lai sụp đổ của kinh thành Kapilavatthu. Ông này liền kéo theo một nhóm người của mình thoát đi theo con đường phía bên kia bờ sông Hằng và đến đó lập xứ sở mới và làm vua ở đó. Ông sinh 7 con trai và 1 con gái. Cô gái tên là Baddhakaccana, sau đó lấy chồng là hoàng tử Panduvasdeva của triều vua Pandya xứ Mathura. Hoàng tử sau này lại thừa kế ngôi của người chú của mình là Vua Vijaya trở thành Vua Tích Lan.
Một người nổi tiếng của dòng họ Thích Ca là Devi, chính là người vợ thứ nhất của vị Vua Asoka và là mẹ đẻ của hoàng tử Mahinda (Ma-Sẩn-Đà) và công chúa Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa).
(Sau này, hoàng tử Mahinda đã trở thành Đại Đức Tỳ kheo Mahinda lãnh sứ mạng truyền đạo qua Tích Lan và công chúa Sanghamitta cũng theo anh mình qua Tích Lan truyền đạo và đã trở thành Tỳ kheo Ni Trưởng đầu tiên ở Tích Lan. Nên nhớ thêm, vị ‘công chúa’ Tỳ kheo Ni này cũng chính là học trò của ngài Moggaliputta Tissa (Mục-Kiền-Liên Tử-Đế-Tu), người đã triệu tập Hội Đồng Kinh Điển lần thứ Ba dưới sự bảo trợ của Vua Asoka và cũng chính là người gợi ý Vua Asoka cho 2 người con của mình là hoàng tử Mahinda và công chúa Sanghamitta xuất gia vào Tăng Đoàn- ND).
Vua Asoka lấy hoàng hậu Devi khi ngài còn là phó vương xứ Ujjayini (Ujjain). Bà là một người mến mộ đạo Phật và là người hậu duệ của dòng họ Thích Ca di trú qua Vedisa sau khi trốn chạy khỏi sự tàn sát ở kinh thành Kapilavatthu bởi tay vua Vidudabha.
Trong phần nói về những di tích ở Sanchi, chúng ta sẽ hiểu thêm về câu chuyện bà Devi. Bà đã ở lại Vedisa thay vì theo vua Asoka về kinh đô Hoa Thị Thành. Cùng với sự mộ đạo và xây dựng nhiều công trình tưởng niệm tại Vedisa bởi Vua Asoka và vợ của mình, Vedisa cũng trở thành một khu thánh địa với rất nhiều lịch sử Phật giáo, đặc biệt là gắn liền với di tích và xá lợi của những A-la-hán Đại Đệ Tử của Đức Phật.