HƯỚNG DẪN HÀNH HƯƠNG VỀ XỨ PHẬT
PHẦN I: Ý NGHĨA, LỊCH SỬ VÀ CON NGƯỜI
1. Những Khía Cạnh Tâm Linh Của Một Cuộc Hành Hương
1.1 Chuyến Đi Của Niềm Tin & Lòng Kính Đạo
Đối với đa số Phật tử, việc thực hiện một cuộc hành hương đến những nơi thiêng liêng như Đức Phật đã đề xướng, là một việc làm một-lần-trong-đời. Với rất nhiều thời gian, tiền bạc và nỗ lực bỏ ra, điều đó bắt buộc một người đang chuẩn bị hành hương phải hiểu rõ cuộc hành hương là vì mục đích gì, đặc biệt là về khía cạnh tâm linh, bởi vì về mặt vật chất và di chuyển thông thường đã có một công ty lữ hành chịu trách nhiệm lo chu toàn rồi. Một cuộc hành hương là một chuyến đi đến nơi thiêng liêng để thể hiện lòng thành tâm mộ đạo và niềm tin. Trong kinh điển Phật giáo, chữ niềm tin (tín) hay saddha là sự xác tín hay vững tin dựa vào sự hiểu biết chắc chắn của một người đối với Phật, Pháp, Tăng. Nó không phải là một đức tin mù quáng dựa vào những quan điểm sai lệch. Bởi vì ngu si, vô minh là kẻ dẫn dắt mình đến những tâm niệm trái đạo lý, thì niềm tin “saddha” là người dẫn dắt mình đến những tâm niệm hợp đạo lý, bởi vì niềm tin vững chắc sẽ có vai trò làm cho tâm thanh tịnh, như Đức Phật đã dạy.
Vì vậy, một người hành hương không phải giống như một du khách, đi tìm thú vui tham quan, ngắm cảnh và thưởng thức. Khác với những khoái cảm giác quan, cảnh quan của những nơi thánh địa không hề làm khởi sinh dục vọng, nhưng là điều kiện để tâm niệm lành mạnh khởi lên trong tâm người hành hương. Đức Phật đã khuyên chúng ta đi thăm viếng những nơi Người đã đản sinh, nơi Người đã Giác Ngộ, nơi Người khai giảng Bài Thuyết Pháp Đầu Tiên và nơi Người đã ra đi, hay Đại Bát-Niết-bàn (Mahaparinibbana), và chiêm bái những thánh tích bằng những tình cảm tôn kính. Bằng cách thể hiện lòng thành và sự tôn kính ở những nơi thánh tích, mọi người có thể thanh lọc ba nghiệp “hành động, suy nghĩ và lời nói” (thân, ý, miệng). Bằng cách này, người hành hương được tăng trưởng đạo hạnh Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, ba nghiệp quan trọng và là hay ba chi trong Bát Chánh Đạo. Vì thế, chúng ta có thể thấy rằng việc hành hương bằng những thái độ tinh thần đúng đắn có thể giúp chúng ta thực hành đúng những Lời Dạy của Đức Phật. Theo như luận sư lỗi lạc Buddhaghosa (ngài Phật Âm), cảm thọ tích cực có được khi viếng thăm những thánh tích là sự trỗi dậy và cảm giác thôi thúc về mặt tâm linh (hướng đạo) mà những nơi đó tạo ra. Một luận sư khác là ngài Dhammapala giải thích rằng cảm giác thôi thúc về tâm linh có nghĩa là tâm có một tuệ giác là mình phải từ bỏ những điều bất thiện, đó là tuệ giác chánh đạo.
1.2 Bốn Cơ Sở Thành Công (Hán Việt: Tứ Thần Túc)
Giống như hành động trí tuệ đáng khen ngợi (punna kiriya), tiềm năng hành động của mỗi con người phụ thuộc vào mức độ của bốn cơ sở thành công (iddhipada), bốn điều kiện cần có đó là: mong muốn thực hiện (chanda), tâm (citta), nỗ lực, cố gắng (viriya) và trí tuệ (vimansa). Tiềm năng hay kết quả (của một việc, một hành động) có tốt, trung bình hay yếu kém đều phụ thuộc vào bốn cơ sở tương ứng đó có đủ mạnh, trung bình hay yếu ớt, sơ sài. Một mong muốn, một ý chí mạnh mẽ thường xuất phát từ lòng thành của một người trong việc thực hiện một cuộc hành hương hướng theo lời khuyên của Phật. Khi tâm và ý nguyện đã mạnh mẽ, thì không có gì làm người đó xao lãng ý định và cũng không có trở ngại, gian khó nào của chuyến đi có thể làm nản lòng người hành hương được. Nỗ lực có nghĩa là nghị lực thực hiện chuyến đi, mà những ngày thật xa xưa kia nó có nghĩa là một chuyến đi dài và nghìn trùng xa qua bao nhiêu lục địa, biển lớn và băng qua những sa mạc mịt mùng.
Ngày nay, chúng ta có thể hành trình bằng máy bay và trên những xe buýt có gắn máy lạnh, nhanh hơn và dễ dàng hơn nhiều, tuy nhiên sự chuẩn bị là điều thật sự không thể thiếu được, đặc biệt là tìm hiểu rõ về ý nghĩa lịch sử và tâm linh của mỗi nơi thánh địa trong lịch trình hành hương. Với sự hiểu biết này, một người có thể chiêm nghiệm và liên tưởng một nơi thiêng liêng đang viếng thăm với những sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật lịch sử, điều đó giúp bạn hình dung ra được một bức tranh trong tâm, tạo điều kiện hay duyên làm khởi sinh những tâm niệm lành mạnh và thánh thiện khi chiêm bái thánh tích đó. Điều này chỉ đích thực có được về mặt trí tuệ và tâm linh bởi những người đã có chuẩn bị chu đáo cho cuộc hành hương. (Bởi vì có rất nhiều người chỉ tham gia cuộc hành hương vì sự tò mò, hay gần như là ‘mê tín’ chỉ vì nghe đến những nơi được cho là ‘linh thiêng’ thì đến thăm chỉ đơn thuần là cầu được phúc đức, cũng như những người đến viếng thăm các Chùa thường xuyên, vì một số lòng thành và sự cầu khẩn nào đó, mà chẳng hiểu biết nhiều về ý nghĩa của việc đến viếng Chùa theo đúng giáo pháp – ND).
Tất cả những yếu tố cơ sở thành công này đều đã được trang bị trong tim của những nhà hành hương Trung Hoa ngày trước như ngài Pháp Hiển (Fa Hsien), Huyền Trang (Hsüan Tsang), Nghĩa Tịnh (I-Ching) và nhiều người khác khi họ lên đường hành hương sang Ấn Độ cách đây mười mấy thế kỷ.
1.3 Tăng Trưởng 10 Điều Hoàn Thiện Hay Hạnh Ba-La-Mật (Paramis)
Khía cạnh thứ hai của một cuộc hành hương đó là hành động buông bỏ, nghĩa là người hành hương nên từ bỏ những nhu cầu hay tham dục xa xỉ, và nên hài lòng với những tiện nghi, xe cộ và thức ăn đơn giản, thanh tịnh. Tâm niệm không tham dục giúp cho người hành hương chịu đựng được những bất tiện và vất vả bằng lòng nhẫn nại và từ bi, mà không hề phàn nàn, than vãn.
Trong thời gian thăm viếng một thánh tích, người hành hương cảm thấy mình đang ở nơi có sự hiện diện của Đức Bổn Sư và chính niềm tin miên mật này sẽ mang lại lòng hoan hỉ và sự tuân giữ giới hạnh, vốn là nền tảng của công đức. Nhiều người còn thực hành bố thí (đàn-na), cúng dường cho những Tăng Ni để tỏ lòng kính trọng và biết ơn đối với những thầy đã chăm sóc và giữ gìn những nơi thiêng liêng. Những thánh tích này cũng là những nơi mà những người hành hương quán chiếu về những công hạnh của Đức Phật và thực hành chánh niệm nhằm phát triển và trí tuệ. Có nhiều cách thực hành công hạnh khác nhau để một người thể hiện lòng thành kính ở những thánh tích hay bảo tháp (cetiyas) bên cạnh những nghi thức thông thường như dâng hoa, cúng đèn, thắp hương, và vái lạy trong nghi lễ cúng đường (puja). Trong quá trình hành hương, trong một người có thể khởi sinh nhiều thiện tâm, làm cho mình trở nên tốt đẹp và cao thượng hơn, vì vậy sẽ tạo ra nhiều thiện nghiệp tốt đẹp hơn (kusala kamma). Thật vậy, người hành hương có thể phát triển những Điều Hoàn Thiện hay Ba-la-mật (Paramis) và tích nhiều công đức trong chuyến hành hương bằng lòng thành.
Nhưng điều đó không nên được kết thúc sau khi kết thúc chuyến hành hương và trở về nhà, mà bạn phải luôn luôn cố gắng hồi tưởng hay chánh niệm lại trong trí nhớ những khoảnh khắc đầy hoan hỉ và khó diễn tả mình đã trải qua ở những nơi thiêng liêng của Phật, và giữ cho những kỉ niệm đó luôn luôn sống động trong ký ức của mỗi người. Sự hồi tưởng đó lại khởi sinh ra niệm hỉ lạc mới và là phương tiện thiện xảo để củng cố những thiện nghiệp mà mình đã tích cóp được trong chuyến hành hương. Vào những lúc bệnh tật, lo sợ hay buồn đau trong cuộc đời mình, bạn sẽ có thể dễ dàng xua tan đi những phiền não đó bằng cách tìm niềm vui thanh tịnh trong việc nhớ lại những hành vi tốt đẹp hay thiện nghiệp trong chuyến hành hương.
1.4 Hội Ái Hữu Phật Giáo hay Hội Đạo Hữu Đồng Hành
Hội ái hữu có nghĩa là nhóm người hay cộng đồng cùng mục đích thường xuyên họp mặt, chia sẻ những trách nhiệm và giúp đỡ lẫn nhau trong mối quan hệ và tình cảm bạn hữu. Khía cạnh ý nghĩa của Hội Ái Hữu Phật giáo hay đạo hữu Phật giáo cũng rất quan trọng trong việc khuyến khích và giúp đỡ của những người khác thực hành những Lời Dạy của Đức Phật và củng cố niềm tin của chúng ta vào những lúc bắt đầu tu tập và những lần khổ sở trong cuộc đời. Một cuộc hành hương theo một nhóm hay một đoàn đến Tám Thánh Địa Quan Trọng là cách tốt nhất để gieo trồng mối quan hệ đạo hữu Phật giáo. Trải qua 2 tuần, hoặc hơn nữa, của một cuộc hành hương, những người trong nhóm hành hương đều có những cơ hội giao tiếp gần gũi với nhau và quen biết nhau trong những không khí của lòng từ bi, lòng hoan hỉ, hào hiệp và lòng thành tín ngưỡng. Mối quan hệ gắn bó của tình đồng đạo được hình thành trong lúc cùng nhau thực hiện những đạo hạnh sẽ còn mãi sau chuyến hành hương và những người hành hương sẽ luôn nâng niu những kỷ niệm đáng quý đó mỗi khi hồi tưởng lại những khoảnh khắc mình trải qua ở những nơi chiêm bái. Một chuyến đi hành hương đến Tám Thánh Địa Quan Trọng cùng với những đạo hữu, đoàn kết bằng niềm tin và lòng mộ đạo thật sự là tình ái hữu Phật giáo và là cách tuyệt vời nhất để phát huy tình bạn hữu giữa mọi người.
1.5 Khởi Sinh Sự Thúc Giục Về Mặt Tâm Linh Trong Chuyến Hành Hương(2)
Theo những ghi chép của Kinh Điển, Bốn Thánh Địa Hành Hương (Tứ Động Tâm) được gọi là Samvejaniya-thana, có nghĩa là những nơi sẽ làm khởi sinh trong lòng ý thức và sự động tâm về bản chất Vô Thường của vạn vật. Vì vậy, những người hành hương khéo tâm sẽ tìm thấy cơ hội trong chuyến hành hương làm tăng thêm niềm Thúc Giục về mặt tâm linh (samvega)[1] bằng cách quán chiếu những lời dạy cuối cùng của Đức Phật trước khi người nhập diệt Bát-Niết-Bàn:
“Này các Tỳ kheo, bây giờ ta nói với các thầy: Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy nỗ lực tinh tấn (tu hành) để đạt được mục tiêu (giải thoát) của mình”.
(Trích Kinh Đại Bát-Niết-Bàn– Mahaparinibbana).
Bốn thánh địa đã từng là những trung tâm gắn liền với cuộc đời của Đức Phật, Giáo Pháp (Dhamma) và những Tỳ kheo A-la-hán (Arahant) nổi tiếng của Tăng Đoàn (Sangha). Hẳn chúng ta đã từng ít nhiều đọc hay nghe về những sự kiện Đức Phật Đản Sinh ở Lumbini, Đức Phật Thành Đạo ở Buddhagaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Đức Phật khai giảng Bài Pháp Đầu Tiên ở Isipatana (Vườn Nai), và Đức Phật Bát-Niết-Bàn ở Kusinara. Ngày nay, Phật và những vị A-la-hán đầu tiên không còn ở đó nữa, cũng vì một lẽ thật là ngay cả Đức Phật và những A-la-hán lỗi lạc đó cũng không vượt qua quy luật thế gian ‘sinh, lão, bệnh, tử’. Lẽ thật là thế giới của tất cả chúng sinh (satta-loka) không bao giờ thường hằng mà phụ thuộc vào sự biến đổi theo Quy Luật Vô Thường. Chỉ cần đến nhìn thánh địa và chiêm nghiệm lại điều này, chúng ta không khỏi có cảm giác ‘nôn nao’, ‘thúc bách’ về tâm linh (samvega) trong lòng mình về việc nổ lực tu tập con đường Bát Chánh Đạo để mau dẫn đến Niết-Bàn Nibbana, chấm dứt mọi khổ đau của sinh tử.
Sau khi Bát-Niết-Bàn của Đức Phật, những người kính đạo khắp Ấn Độ đã xây nhiều bảo tháp stupas và tu viện viharas để tưởng niệm những sự kiện quan trọng trong cuôc đời Đức Phật và Phật Pháp ở những nơi này. Như chúng ta đã đọc, lịch sử có đến 84.000 bảo tháp (stupas) được xây dựng bởi vua Asoka để tôn kính và tưởng niệm 84.000 xá lợi thuộc về (hay liên quan đến) Phật và những bậc A-la-hán. Những xá lợi này còn được gọi là những Pháp-uẩn (Dhamma-khandas), cùng với những công trình tưởng niệm khác được xây bởi những vị vua Phật tử thuộc những triều đại khác nhau sau này.
Hôm nay, những người hành hương phải đi qua những khoảng cách dài trên những con đường xấu, khó đi đến của những vùng xa xôi của miền Bắc Ấn Độ chỉ để chứng kiến những di tích đổ nát, điêu tàn của những đền tháp huy hoàng một thời hoàng kim xa xưa đã bị phá hủy, thậm chí đã bị tiêu hủy. Bất chấp ý đồ, ý nguyện hay tâm lý chung của người xưa là xây đền, tháp to lớn, kiên cố để tưởng niệm trường cửu, để ‘trừ hao’ thời gian và khả năng bị con người phá hoại (ví dụ rõ ràng nhất là những Trụ Đá Asoka uy nghi bằng đá cứng gần như khó bị hư hoại hay bị phá hoại), hầu hết tất cả những công trình tưởng niệm đó đều đã bị tan hoại và bị tàn phá theo thời gian.
Vì vậy, chúng ta ý thức được rằng thế giới hữu vi (sankhara-loka) và thế giới tự nhiên (okasa-loka) không bao giờ thường hằng mà biến đổi theo quy luật Vô Thường. Ý thức này có thể là một trong cảm xúc trong nghĩa “động tâm”, làm cho kẻ hành hương cảm giác nôn nao khó tả, như là một sự thúc giục tâm linh về một kiếp người ngắn ngủi, về sự cấp bách thực hành Chánh Đạo để mau có ngày giải thoát.