Phần 23

10- Pháp-Hạnh Tâm-Xả Ba-La-Mật Có 3 Bậc: (Upekkhāpāramī)

Pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật có 3 bậc; bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.

10.1- Pháp-Hạnh Tâm-Xả Ba-La-Mật Bậc Hạ (Upekkhāpāramī)

Tích Aṭṭhisenajātaka (Ăt-thí-xê-ná-cha-tá-ká)

Trong Tích Aṭṭhisenajātaka Đức-Bồ-tát tiền-kiếp Đức-Phật Gotama là đạo-sĩ Aṭṭhisena tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc hạ (upekkhāpāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Trong đất nước Āḷavī, số tỳ-khưu Āḷavī không có thí-chủ, tự mình làm cốc lớn để ở, nên đến xin dân chúng những thứ vật liệu làm cốc, mượn xe bò chở vật liệu, nhờ người đến giúp làm cốc, làm phiền lụy đến nhiều người. Cho nên, những người nào nhìn thấy bóng vị tỳ-khưu thì họ sợ hãi, đóng cửa, đi lẩn tránh nơi khác, không dám gặp mặt tỳ-khưu.

Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đi vào xóm làng để khất thực. Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão, dân chúng trong làng đều lẩn tránh nơi khác.

Khi trở về, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa cho gọi chư tỳ-khưu hội họp, Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi rằng:

Này quý vị! Ngày trước, phần đông dân chúng Āḷavī có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, chư tỳ khưu đi khất thực được vật thực đầy đủ dễ dàng.

Nay, do nguyên nhân nào mà tỳ-khưu đi khất thực được vật thực khó khăn vậy?

Chư tỳ-khưu bạch với Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:

Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, số tỳ-khưu không có thí-chủ, tự mình làm cốc lớn để ở, nên đến xin dân chúng những thứ vật liệu làm cốc, mượn xe bò chở vật liệu, nhờ người đến giúp làm cốc, đã làm phiền lụy đến nhiều người. Cho nên, những người nào nhìn thấy bóng vị tỳ-khưu thì họ sợ hãi, đóng cửa, đi lẩn tránh nơi khác, không dám gặp tỳ-khưu.

Đó là nguyên nhân mà nay tỳ-khưu đi khất thực có được vật thực khó khăn.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đến đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch về vấn đề số tỳ-khưu Āḷavī đã tự làm cốc lớn, làm phiền lụy đến dân chúng như vậy.

Do nguyên nhân ấy, nên Đức-Thế-Tôn ngự đến đất nước Āḷavī, tại ngôi bảo tháp Aggāḷava cetiya, Đức-Phật cho truyền gọi chư tỳ-khưu Āḷavī đến hội họp đông đủ. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng:

Này chư tỳ khưu! Các con tự làm cốc lớn để ở, nên đã đến xin dân chúng những thứ vật liệu xây dựng, nhờ người đến giúp làm cốc. Sự việc ấy đã xảy ra có thật vậy hay không?

Chư tỳ khưu kính bạch với Đức-Thế-Tôn, sự việc ấy đã xảy ra đúng sự thật như vậy.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn chê trách chư tỳ-khưu ấy xin nhiều thứ làm cho nhiều người sợ hãi, đi lẩn tránh nơi khác. Do nguyên nhân đầu tiên ấy, nên Đức-Thế-Tôn chế định điều giới “kuṭikārasikkhāpada” đại ý nội dung điều giới này rằng:

Tỳ-khưu không có thí-chủ, nếu tự mình làm cốc để ở thì chu vi cốc có chiều ngang khoảng 7 gang tay Đức- Phật và chiều dọc 12 gang Đức-Phật. Nếu tỳ-khưu nào làm cốc lớn hơn chu vi mà Đức-Phật cho phép thì tỳ-khưu ấy phạm giới nặng “Saṃghādisesa” (phải bị chư tỳ-khưu- Tăng hành phạt).

Nhân vấn đề xin nhiều thứ đối với người khác, Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ khưu rằng:

Này chư tỳ-khưu! Bậc thiện-trí xuất gia trở thành đạo-sĩ trong thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác chưa xuất hiện trên thế gia, dù Đức-vua thỉnh mời vị đạo-sĩ ấy cần những thứ nào, xin tâu cho biết, Đức-vua sẽ cúng dường những thứ ấy, nhưng vị đạo-sĩ vẫn không hề tâu xin một thứ nào cả, do nghĩ rằng:

“Người nào xin đồ vật yêu quý, người ấy không phải là người yêu quý của thí chủ.”

Đức-Thế-Tôn thuyết về tiền-kiếp của Đức-Phật:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi bảo tháp Aggāḷava cetiya trong đất nước Āḷavī. Khi ấy, Đức-Phật thuyết về tích Aṭṭhisenajātaka được tóm lược như sau:

Tích Aṭṭhisenajātaka

Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta ngự tại kinh-thành Bārāṇasī. Khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh vào dòng dõi Bà-la-môn trong một tỉnh thành, được đặt tên là Aṭṭhisenakumāra: Công-tử Aṭṭhisena.

Khi trưởng thành, Đức-Bồ-tát Aṭṭhisena được mẹ cha gửi đi đến kinh-thành Takkasilā, để theo học các bộ môn theo truyền thống dòng dõi Bà-la-môn với vị thầy Disāpamokkha.

Sau khi học thành tài xong, trở về cố quốc, Đức-Bồ-tát cảm thấy nhàm chán ngũ-dục là sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục, nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, làm cốc lá trong khu rừng núi Himavanta, thực-hành pháp-hành thiền-định, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và chứng đắc các phép thần-thông tam-giới.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena trú trong rừng núi Himavanta trải qua một thời gian lâu. Sau đó, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ rời khỏi khu rừng núi Himavanta, đi vào khất thực trong xóm làng, tỉnh thành, dần dần Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đến kinh-thành Bārāṇasī, nghỉ tại vườn thượng uyển của Đức-vua Brahmadatta.

Sáng hôm ấy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena đi vào kinh-thành để khất thực, đi ngang qua cung điện của Đức-vua Brahmadatta. Nhìn thấy Đức-Bồ-tát đạo-sĩ có dáng đi cẩn trọng các môn, nên Đức-vua Brahmadatta liền phát sinh đức-tin trong sạch, truyền bảo vị quan cận thần đi thỉnh Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena vào cung điện.

Tuân lệnh Đức-vua, vị quan đi theo kịp Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena, kính thỉnh Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đi vào cung điện, để Đức-vua Đức-vua Brahmadatta cúng dường vật thực.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena đi vào cung điện, Đức-vua thỉnh Ngài ngồi chỗ cao quý, Đức-vua ngự một nơi hợp lẽ. Đức-vua kính dâng, cúng dường những món ăn ngon lành đến Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena.

Sau khi độ vật thực xong, Đức-vua Brahmadatta lắng nghe lời chúc phúc của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena, Đức-vua vô cùng hoan hỷ kính thỉnh Đức-Bồ-tát đạo-sĩ trú tại vườn thượng uyển ấy, Đức-vua ngự đến mỗi ngày 2, 3 lần để dâng lễ, cúng dường đến Đức-Bồ-tát đạo-sĩ.

Một hôm, lắng nghe pháp của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena, Đức-vua Brahmadatta vô cùng hoan hỷ chân thành kính thỉnh Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena rằng:

Kính bạch Ngài Đạo-sĩ, Quả nhân vô cùng hoan hỷ lắng nghe lời giáo huấn của Ngài, nên Quả nhân có đức-tin trong sạch nơi Ngài. Quả nhân chân thành kính thỉnh Ngài cần những thứ nào kể từ ngai vàng của Quả nhân cho đến các thứ quý báu khác. Kính xin Ngài tâu cho Quả nhân biết, Quả nhân sẽ kính dâng, cúng dường những thứ ấy đến Ngài ngay.

Nghe Đức-vua Brahmadatta bạch như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena không hề tâu xin một thứ nào cả, và cũng không tâu một lời nào cả.

Đối với các người khác thường đến tâu xin Đức-vua Brahmadatta những thứ nào, thì họ thường được Đức-vua ban những thứ ấy theo ý muốn của họ.

Một hôm, Đức-vua Brahmadatta suy nghĩ rằng:

“Những người nào thường đến tâu xin nơi ta những thứ này, những thứ kia, tất cả những người ấy đều được ta ban cho họ những thứ ấy theo ý muốn của họ. Còn Ngài Đạo-sĩ Aṭṭhisena mà ta tôn kính nhất, từ khi ta chân thành kính thỉnh Ngài cho đến nay, đã trải qua thời gian khá lâu mà Ngài chưa hề tâu xin ta một thứ nào cả.

Ngài Đạo-sĩ Aṭṭhisena là bậc đại-thiện-trí cao thượng, có trí-tuệ siêu-việt, có cách sống cao thượng nào đó.

Vậy, ta nên bạch hỏi Ngài để hiểu biết.”

Một hôm, sau khi dùng bữa ăn sáng xong, Đức-vua Brahmadatta ngự đến vườn thượng uyển, đảnh lễ Ngài Đạo-sĩ Aṭṭhisena, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-vua bạch hỏi về nguyên nhân xin của các người khác và nguyên nhân không xin của Ngài bằng câu kệ rằng:

Kính bạch Ngài Đạo-sĩ Aṭṭhisena cao thượng, những người nào mà Quả nhân không quen biết đến xin những thứ này, thứ kia, Quả nhân đều ban cho họ những thứ ấy theo ý muốn của họ.

Do nguyên nhân nào mà Ngài Đạo-sĩ không hề tâu xin một thứ nào nơi Quả nhân vậy?

Nghe Đức-vua Brahmadatta bạch hỏi như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena tâu rằng:

“Yācako appiyo hoti, yācaṃ adadamappiyo.

Tasmā’haṃ taṃ na yācāmi, mā me viddesanā ahu.”

Muôn tâu Đại-vương,

Người xin là người không yêu quý của người cho,

Người không cho là người không yêu quý của người xin.

Vì vậy, bần đạo không tâu xin gì nơi Đại-vương.

Để điều không vừa lòng không xảy ra với bần đạo.

Giải thích ý nghĩa bài kệ:

* Người xin nào thường xin rằng: “Cho tôi xin những thứ này, cho tôi xin những thứ kia, v.v… khi được rồi lại xin nữa, xin mãi như vậy. Người xin ấy sẽ trở nên người không yêu quý của người cho, dù người cho là mẹ cha, anh chị em, bà con thân quyến, bạn thân, và những người khác, …

* Người không cho nào dù là mẹ cha, anh chị em, bà con thân quyến, bạn thân, v.v… không cho những thứ mà người xin muốn được, thì người không cho ấy cũng sẽ trở nên người không yêu quý của người xin.

Do nguyên nhân là người xin là người không yêu quý của người cho, và người không cho những thứ mà người xin muốn được, thì người không cho ấy trở nên người không yêu quý của người xin.

Vì vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena không tâu xin một thứ nào nơi Đức-vua Brahmadatta, để giữ gìn tình thân thiện, lòng tôn kính với nhau.

Hiểu biết cách sống cao thượng của Ngài đạo-sĩ Aṭṭhisena như vậy, nên Đức-vua Brahmadatta bạch với Ngài đạo-sĩ Aṭṭhisena bằng câu kệ rằng:

Kính bạch Ngài đạo-sĩ Aṭṭhisena cao thượng.

Bậc xuất-gia nào không nuôi mạng bằng cách đi khất thực, nhận những thứ không nên nhận, bậc xuất-gia ấy làm cho tổn phước-thiện của thí-chủ và chính bậc xuất-gia ấy nuôi mạng cũng không được an-lạc nữa.

Còn bậc xuất-gia nào nuôi mạng bằng cách đi khất thực, nhận những thứ nên nhận, bậc xuất-gia ấy làm cho tăng trưởng phước-thiện của thí-chủ và chính bậc xuất-gia ấy nuôi mạng cũng được an-lạc nữa.

Những thí-chủ có trí-tuệ tin nơi phước-thiện bố-thí và quả của phước-thiện bố-thí, thấy bậc xuất-gia không nên thờ ơ lãnh đạm, mà nên phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ đón tiếp niềm nở bậc xuất-gia ấy.

Kính bạch Ngài Đạo-sĩ cao thượng.

Ngài Đạo-sĩ là bậc thực-hành pháp-hạnh cao thượng, có trí-tuệ siêu-việt, Ngài Đạo-sĩ là bậc mà Quả nhân tôn kính nhất. Cho nên, Quả nhân kính thỉnh Ngài cần những thứ nào, xin Ngài tâu cho Quả nhân biết, Quả nhân sẽ chân thành kính dâng đến Ngài mọi thứ ấy kể cả ngai vàng của Quả nhân.

Khi nghe Đức-vua Brahmadatta thỉnh như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena không tâu xin một thứ nào cả.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ trình bày cách thực-hành của bậc xuất-gia cho Đức-vua Brahmadatta biết, nên tâu rằng:

Muôn tâu Đại-vương, sự xin bằng lời nói đến người khác đó là cách sống của người tại gia cư sĩ đã trở thành thói quen từ lâu rồi, đó không phải cách sống của bậc xuất-gia.

Đối với bậc xuất-gia khi đã trở thành đạo-sĩ nên sống theo chánh-mạng, tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành 3 ác-nghiệp, do khẩu hành 4 ác-nghiệp, nuôi mạng chân chánh trong sạch thanh-tịnh.

Muôn tâu Đại-vương, chư bậc xuất-gia thiện-trí không xin bằng lời nói, cũng không biểu hiện cử chỉ ra bằng thân.

Thí-chủ phục vụ hộ độ có trí-tuệ hiểu biết những thứ vật dụng cần thiết đến bậc xuất-gia trong khi không bị bệnh và khi bị bệnh.

Bậc xuất-gia thiện-trí cần những thứ vật dụng cần thiết nào hợp pháp không thể xin bằng lời nói, mà chỉ có thể đứng yên trang nghiêm tại nơi ấy bằng cách khất thực mà thôi. Nếu có người đến hỏi thì có thể trả lời cho người ấy biết.

Đó là cách khất thực của chư bậc xuất-gia thiện-trí thực-hành phạm-hạnh cao thượng.

Phần giải thích:

Chư bậc xuất-gia đó là chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác, chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác, chư Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đang tạo các pháp-hạnh ba-la-mật của mình cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật Độc-Giác, chư Thánh thanh-văn-giác.

Khi chư bậc xuất-gia thiện-trí ấy cần thứ vật dụng thiết yếu nào không thể xin bằng lời nói, mà chỉ có thể đứng yên trang nghiêm tại nơi ấy bằng cách khất thực mà thôi. Nếu có người đến hỏi thì có thể trả lời cho người ấy biết.

Lắng nghe lời giảng dạy của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena, Đức-vua Brahmadatta bạch rằng:

Kính bạch Ngài Đạo-sĩ, Quả nhân kính dâng, cúng dường 1000 con bò sữa màu nâu cùng với bò đực đến Ngài, để Ngài dùng sữa tươi và sữa chua,…

Kính xin Ngài nhận những con bò ấy của Quả nhân.

Ngài là bậc thực-hành phạm-hạnh cao thượng, Quả nhân vô cùng hoan hỷ nghe chánh-pháp cao thượng, lời giáo huấn sâu sắc của Ngài như vậy, chẳng lẽ Quả nhân không kính dâng, cúng dường đến chánh-pháp cao-thượng của Ngài hay sao?

Nghe Đức-vua Brahmadatta bạch như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena tâu lời từ khước rằng:

Muôn tâu Đại-vương, thông thường bậc xuất-gia không dính mắc, không ràng buộc vào thứ gì cả.

Vì vậy, bần đạo không muốn những con bò ấy của Đại-vương.

Đức-vua Brahmadatta thực-hành theo lời giáo huấn của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena, tạo mọi phước-thiện như phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ gìn ngũ-giới trong sạch, … cho đến trọn đời.

Sau khi Đức-vua Brahmadatta băng hà, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam trên các cõi trời dục-giới.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena giữ gìn các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến chết. Sau khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena chết, sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau tái-sinh kiếp kế-tiếp hoá-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy, Vị phạm-thiên ấy hưởng sự an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.

Sau khi thuyết tích Aṭṭhisenajātaka này xong, Đức-Thế-Tôn thuyết dạy pháp tứ Thánh-đế, chư tỳ-khưu chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân bậc thấp hoặc bậc cao tùy theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị tỳ-khưu.

Tích Aṭṭhisenajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại

Trong tích Aṭṭhisenajātaka, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama trong kiếp quá-khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, những hậu-kiếp của nhân vật trong tích ấy liên quan đến kiếp hiện-tại như sau:

Đức-vua Brahmadatta nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Ānanda.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.

Nhận Xét Về Tích Aṭṭhisenajātaka

Pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật đó là trung-dung tâm-sở (tatramajjhattatācetasika) đồng sinh với đại-thiện-tâm có đối-tượng chúng-sinh không thương không ghét, xem thường 8 pháp thế-gian là được danh, mất danh, được lợi, mất lợi, được khen, bị chê, khổ, lạc.

Tích Aṭṭhisenajātaka, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc hạ, bởi vì Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Aṭṭhisena không ham muốn lợi danh, xem thường các pháp thế gian, với đại-thiện-tâm trung dung trong mọi đối tượng, biết tri túc những gì đã có được, nên không tham muốn của cải nhiều để rồi phải bị ràng buộc vào của cải ấy.

(Xong pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc hạ)

10.2- Pháp-Hạnh Tâm-Xả Ba-La-Mật Bậc Trung (Upekkhā Upapāramī)

Tích Kacchapajātaka (Cách-chá-pá-cha-tá-ká)

Trong tích Kacchapajātaka này, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh làm Bà-la-môn tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc trung (upekkhā upa-pāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi, Đức-Phật đề cập đến sự mâu thuẫn lắng dịu giữa 2 vị quan của Đức-vua Kosala, nên Ngài thuyết về tích Kacchapajātaka này được tóm lược như sau:

Tích Kacchapajātaka

Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta ngự tại kinh-thành Bārāṇasī, khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh vào dòng dõi Bà-la-môn trong đất nước Kāsi.

Khi trưởng thành, Đức-Bồ-tát theo học các bộ môn theo dòng dõi Bà-la-môn tại kinh-thành Takkasilā.

Sau khi học xong trở về cố quốc, Đức-Bồ-tát nhàm chán ngũ-dục là sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục, nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, làm cốc lá tại bến con sông Gaṅgā, gần khu rừng núi Himavanta, thực-hành pháp-hành thiền-định, chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc các phép-thần-thông tam-giới.

Trong tích này, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật với tâm trung dung trong mọi đối tượng. Khi ấy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đang ngồi trước cửa cốc lá, một con khỉ tinh nghịch đến quậy phá, nhảy đến ngồi trên vai của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, rồi đút dương vật của nó vào lỗ tai bên này, rồi đút lỗ tai bên kia của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn ngồi yên tịnh, còn con khỉ ấy chơi chán, rồi nhảy đi nơi khác, bởi vì Đức-Bồ-tát đạo-sĩ tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật, với đại-thiện-tâm có trung-dung tâm-sở trong mọi đối-tượng xấu, mọi đối-tượng tốt, đối-tượng đáng hài lòng, đối-tượng không đáng hài lòng, nên không phát sinh sân-tâm trong đối-tượng không đáng hài lòng, cũng không phát sinh tham-tâm trong đối-tượng đáng hài lòng.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ phát sinh đại-thiện-tâm có trung-dung tâm-sở trong mọi đối-tượng, cho nên, dù cho con khỉ tinh nghịch ấy có hành vi xấu xa như thế nào, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn giữ thái độ bình thản tự nhiên.

Hằng ngày, con khỉ tinh nghịch ấy thường đến quậy phá Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, nó có những hành vi xấu xa trở thành thói quen như vậy.

Một hôm nọ, một con rùa từ dưới nước bò lên bờ, nằm nhắm mắt há miệng phơi nắng trên bờ sông Gaṅgā.

Thấy con rùa nằm há miệng, con khỉ tinh nghịch quậy phá ấy nhảy đến đút dương vật của mình vào miệng con rùa. Ngay khi ấy, con rùa mở mắt, rồi ngậm chặt dương vật con khỉ nằm trong miệng. Nỗi đau khổ cùng cực phát sinh lên đối với con khỉ tinh nghịch ấy không sao chịu đựng nổi, nên nó nghĩ rằng:

“Ai là người có thể giải cứu ta thoát khỏi nỗi khổ đau cùng cực này được?”

Con khỉ ấy nhớ rằng:

“Ngoài vị đạo-sĩ ra, không còn có ai khác có thể giải cứu ta thoát khỏi nỗi khổ đau cùng cực này.

Vậy, ta chỉ nên tìm đến vị đạo-sĩ ấy mà thôi.”

Nghĩ vậy, con khỉ tinh nghịch ấy đưa 2 tay ẵm con rùa vào bụng đi đến tìm Đức-Bồ-tát đạo-sĩ.

Nhìn thấy con khỉ ấy như vậy, nên Đức-Bồ-tát nói lời trêu chọc con khỉ ấy rằng:

Ai kia vậy! Như người ôm choàng 2 tay món vật thực lớn đang đi đến vậy?

Ai kia vậy! Như vị Bà-la-môn có 2 tay ôm của cải quý báu lớn đang đi đến vậy?

Này chú khỉ! Hôm nay chú đi tìm được vật thực lớn nơi nào vậy? Hoặc chú được nhiều vật thực từ người nào như vậy?

Nghe Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nói lời trêu chọc như vậy, con khỉ tinh nghịch cung kính thưa với Đức-Bồ-tát đạo-sĩ rằng:

Kính thưa Ngài đạo-sĩ, tôi là con khỉ tinh nghịch si mê đụng chạm vào nơi không nên đụng chạm.

Cầu mong mọi sự an-lạc hằng đến với Ngài.

Kính xin Ngài đạo-sĩ có tâm đại-bi tế độ giải cứu tôi thoát ra khỏi nỗi khổ đau cùng cực này.

Khi tôi được thoát khỏi nỗi khổ đau cùng cực này, do nhờ oai lực của Ngài đạo-sĩ, tôi sẽ đi vào rừng sâu sống, chắc chắn không bao giờ dám đến quấy phá Ngài đạo-sĩ nữa.

Nghe con khỉ tha thiết khẩn cầu như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ phát sinh tâm đại-bi cứu khổ cho con khỉ, nên khẩn khoản nói với con rùa rằng:

Các loài rùa là chúng-sinh có dòng dõi Kacchapagotta và các loài khỉ là chúng-sinh có dòng dõi Koṇḍaññagotta. Dòng dõi Kacchapagotta và dòng dõi Koṇḍaññagotta vốn có quan hệ mật thiết với nhau từ xưa.

Này chú rùa! Chú thuộc dòng dõi Kacchapagotta nên tha tội cho chú khỉ thuộc dòng dõi Koṇḍaññagotta được tự do vậy.

Nghe lời khuyên bảo của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như vậy, con rùa phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, nên tha tội cho con khỉ tinh nghịch ấy được tự do.

Sau khi được thoát khỏi nỗi khổ đau cùng cực do nhờ ân-đức của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, con khỉ cung kính đảnh lễ Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, rồi xin phép từ biệt, nhảy trốn vào rừng sâu, không bao giờ trở lại nơi ấy nữa.

Còn con rùa cũng đảnh lễ Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, rồi xin phép trở về chỗ ở của mình.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ giữ gìn, duy trì các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến chết.

Sau khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ chết, sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao tương xứng gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh Quảng-quả-thiên (Vehapphalabhūmi). Chư vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

Sau khi thuyết tích Kacchapajātaka này xong, Đức-Thế-Tôn thuyết dạy pháp tứ Thánh-đế, nên chư tỳ-khưu chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn trở thành bậc Thánh-nhân bậc thấp bậc cao nào tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị tỳ-khưu.

Tích Kacchapajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại

Trong tích Kacchapajātaka, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama trong kiếp quá-khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, những hậu kiếp của nhân vật trong tích ấy liên quan đến kiếp hiện-tại như sau:

Con rùa và con khỉ tinh nghịch nay kiếp hiện-tại là 2 vị quan có mâu thuẫn với nhau trong triều đình của Đức-vua Kosala.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.

(Xong pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc trung)

10.3- Pháp-Hạnh Tâm-Xả Ba-La-Mật Bậc Thượng (Upekkhāparamatthapāramī)

Tích Mahālomahaṃsacariyā (Má-ha-lô-má-hăm-xá-chà-rí-gia)

Trong tích Mahālomahaṃsacariyā, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng (upekkhāparamatthapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Trong thời-kỳ quá-khứ, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh trưởng trong một gia đình giàu sang phú quý có nhiều của cải tài sản lớn. Khi Đức-Bồ-tát công-tử trưởng thành được mẹ cha của Đức-Bồ-tát công-tử gửi đến học tại kinh-thành Takkasilā, với vị giáo sư Disāpamokkha.

Sau khi học thành tài, Đức-Bồ-tát công-tử trở về nhà giúp đỡ mẹ cha. Khi mẹ cha của Đức-Bồ-tát công-tử qua đời, những người bà con dòng họ yêu cầu Đức-Bồ-tát công-tử thừa kế tất cả tài sản sự nghiệp của mẹ cha.

Vốn là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng thực-hành và tích lũy các pháp-hạnh ba-la-mật từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ, để mong trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Cho nên Đức-Bồ-tát công-tử không say mê trong của cải tài sản lớn lao ấy, cũng không muốn sống đời sống của người tại gia cư sĩ có nhiều ràng buộc, chỉ muốn bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo-sĩ mà thôi.

Đức-Bồ-tát công-tử có trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ ngũ-uẩn này là vô-thường, ngũ-uẩn này là khổ, ngũ-uẩn này là vô-ngã, thân thể này là bất tịnh đáng nhàm chán, nên Đức-Bồ-tát công-tử chỉ quyết tâm-từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo-sĩ mà thôi.

Vì vậy, Đức-Bồ-tát công-tử đem tất cả mọi của cải tài sản làm phước bố-thí đến những người nên bố-thí, rồi từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Sau khi trở thành đạo-sĩ, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ phát nguyện tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật, với ý định rằng:

“Ta không nên tỏ ra cho ai biết ta đang tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật.”

Từ đó, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ không quan tâm đến 8 pháp thế-gian (lokadhamma) đó là được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, được khen, bị chê, an-lạc, khổ não.

Đức-Bồ-tát chỉ quyết tâm tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật đến bậc cao thượng nhất mà thôi.

Để hỗ trợ cho pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật ấy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ còn phải cố gắng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật khác, nhất là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật, pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật, pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật, … mỗi khi có cơ hội xảy đến.

Đức-Bồ-tát là vị đạo-sĩ có đức-hạnh tri-túc, chỉ mặc một bộ y phục cũ dù có nhiều miếng vá cốt để che thân thể khỏi hổ-thẹn mà thôi. Vì vậy, khi các thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, dâng cúng dường đến Đức-Bồ-tát những tấm vải mới, Đức-Bồ-tát đều từ khước, không chịu nhận tấm vải mới nào của thí-chủ.

Đức-Bồ-tát là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ siêu việt mà Đức-Bồ-tát làm như là người đần độn.

Một thuở nọ, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đến một ngôi làng, lũ trẻ trong làng ấy rất tinh nghịch, khó dạy. Chúng nó là những đứa con của những gia đình làm công, tôi tớ trong làng. Lũ trẻ này hay quấy phá mọi người già qua lại, không ai chịu nổi.

Nhìn thấy Đức-Bồ-tát đạo-sĩ ăn mặc khác thường đang ngồi nghỉ mệt, lũ trẻ ấy chạy đến vây quanh Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, chúng nhổ nước miếng vào thân của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, ném vật dơ đến Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, v.v… Chúng quậy phá như vậy, mà Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn giữ thái độ trung dung rất tự nhiên, không hề bực tức, không hề ghét lũ trẻ ấy.

Khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đứng đậy đi chỗ khác, thì lũ trẻ ấy cứ đi theo quậy phá Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như vậy.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đi vào nghĩa địa nơi mà người ta bỏ xác người chết, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ gom các bộ xương lại trải làm chỗ nằm, lấy một cái sọ làm gối, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nằm nghỉ trong nghĩa địa ấy.

Khi ấy, lũ trẻ con ấy kéo nhau vào nghĩa địa nơi chỗ nằm của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, chúng nó rất tinh nghịch, tiếp tục quậy phá Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như: nhổ nước miếng, tiểu tiện lên trên người của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ.

Khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đang nằm nghỉ, chúng nó lấy cỏ ngoáy vào lỗ tai, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ không chịu được, rùng mình, thì lũ trẻ phá lên cười.

Dù lũ trẻ muốn quậy phá thế nào, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn giữ thái độ trung dung tự nhiên. Quậy phá Đức-Bồ-tát đạo-sĩ lâu phát chán, rồi lũ trẻ kéo nhau trở về nhà.

Mỗi ngày, lũ trẻ tinh nghịch ấy lại đến quậy phá Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như vậy, nhưng Đức-Bồ-tát vẫn không hề phát sinh sân-tâm, không bực tức hoặc ghét lũ trẻ tinh nghịch ấy.

Nhìn thấy lũ trẻ tinh nghịch kia quậy phá Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như vậy, nhóm người thiện-trí ngăn cấm lũ trẻ ấy, nhưng chúng nó không nghe lời, cứ tiếp tục quậy phá Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như vậy.

Nhóm người thiện-trí nhận thức rằng:

“Vị đạo-sĩ này là bậc đang tạo pháp-hạnh cao thượng, mà ít có người có thể thực-hành được như Ngài.”

Do nhận thức đúng đắn như vậy, nên họ có đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ. Họ đem những đoá hoa, vật thơm, vật thực ngon lành, những phẩm vật quý giá đến lễ bái cúng dường Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, thì Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn giữ thái độ trung dung, tự nhiên, không phát sinh tâm-từ đối với nhóm người thiện-trí ấy, cũng không phát sinh tham-tâm, hài lòng trong các phẩm vật quý giá ấy.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ có đại-thiện-tâm trung dung, bình đẳng, không thiên vị đối với tất cả mọi chúng-sinh, tất cả mọi người như sau:

* Dù lũ trẻ tinh nghịch ấy đối xử tàn tệ, có hành vi thô bỉ đối với Đức-Bồ-tát đạo-sĩ như vậy, Đức-Bồ-tát vẫn không phát sinh sân-tâm ghét chúng nó.

* Dù nhóm người thiện-trí ấy đối xử tốt, có lòng tôn kính, lễ bái cúng dường đến Đức-Bồ-tát đạo-sĩ bằng những phẩm vật quý giá như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn không phát sinh tâm-từ đối với nhóm người thiện-trí ấy, và cũng không phát sinh tham-tâm hài lòng trong những phẩm vật quý giá ấy.

Bởi vì Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đang tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật với đại-thiện-tâm có trung-dung tâm-sở (tatramajjhattatācetasika) không thiên vị, bình đẳng, công bằng, không phân biệt tất cả mọi chúng-sinh xấu, chúng-sinh tốt và không phân biệt tất cả mọi đối-tượng xấu, đối-tượng tốt.

Thậm chí Đức-Bồ-tát đạo-sĩ không phân biệt đối-tượng bất tịnh và đối-tượng tịnh.

Thật vậy, trong nghĩa địa, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ gom các bộ xương người lại trải làm chỗ nằm, lấy xương sọ người làm gối, Đức-Bồ-tát sống trong nghĩa địa ấy.

Đức-Phật dạy:

Susāne seyyaṃ kappemi,chavaṭṭhikaṃ upadhāya’haṃ.

Gāmaṇḍalā upāgantvā, rūpaṃ dassenti nappakaṃ.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, tiền-kiếp Như-Lai,

gom các bộ xương trải làm chỗ nằm tại nghĩa địa.

Lấy sọ người làm gối, nằm nghỉ ngơi.

Dù lũ trẻ rất tinh nghịch đến quấy phá,

Đức-Bồ-tát vẫn không phát sinh sân-tâm.

Dù nhóm người thiện-trí cung kính lễ bái, cúng dường,

Đức-Bồ-tát vẫn không phát sinh tham-tâm.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn giữ thái độ trung dung.

Đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng

của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, tiền-kiếp Như-Lai.

Mười Pháp-Hạnh ba-la-mật

Tóm lược tích Mahālomahamsacariyā, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đã tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng, ngoài ra còn có 8 pháp-hạnh ba-la-mật phụ khác cũng đồng thời thành tựu như sau:

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đem tất cả của cải tài sản làm phước bố-thí, đó là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ giữ gìn giới, đó là pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ từ bỏ nhà đi xuất gia, đó là pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ có trí-tuệ sáng suốt, đó là pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ có sự tinh-tấn không ngừng, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ có đức nhẫn-nại, đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nói lời chân-thật, đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nói lời phát-nguyện vững chắc, đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật.

Đó là 8 pháp-hạnh ba-la-mật phụ đồng thời thành tựu cùng với pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng.

Nhận Xét Về Đức-Bồ-Tát Đạo-Sĩ

Trong tích Mahālomahaṃsacariyā, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng (upekkhāparamatthapāramī).

Pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng là 1 trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, cũng là 1 trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành cho được đầy đủ, để hỗ trợ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha).

Tâm-xả ba-la-mật đó là trung-dung tâm-sở (tatramaj-jhattatācetasika) đồng sinh với các thiện-tâm có đối tượng chúng-sinh có nghiệp là của riêng mình và thừa hưởng quả của nghiệp mà chính mình đã tạo.

Sabbe sattā kammassakā: Tất cả chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình.

Thiện nghiệp cho quả tốt, quả an-lạc.

Ác-nghiệp cho quả xấu, quả khổ.

Như vậy, mỗi chúng-sinh nào đã tạo đại-thiện-nghiệp nào rồi, chúng-sinh ấy có cơ hội hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy của mình trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Mỗi chúng-sinh nào đã tạo ác-nghiệp nào rồi, chúng-sinh ấy chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy của mình trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đức-Bồ-tát tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật với đại thiện tâm trung dung đối với mọi chúng-sinh trong mọi đối-tượng như sau:

Đối-tượng chúng-sinh: Đức-Bồ-tát có trung-dung tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm có đối-tượng chúng-sinh nào đã tạo đại-thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp rồi, chúng-sinh ấy hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của mình hoặc chịu quả khổ của ác-nghiệp của mình.

Đối tượng 8 pháp thế-gian: Đức-Bồ-tát có trung-dung tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không quan tâm đến 8 pháp thế-gian là được lợi, mất lợi; được danh, mất danh; được khen, bị chê; an-lạc, khổ não phát sinh trong mỗi chúng-sinh.

Đức-Bồ-tát không hề liên quan đến nghiệp của mỗi chúng-sinh, mỗi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình, và thừa hưởng quả của nghiệp như người thừa kế quả nghiệp của mình.

Đức-Bồ-tát có trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp đều là vô-ngã. Tất cả các pháp hữu-vi thuộc tam-giới đều sinh rồi diệt, nên có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, như nhau cả thảy.

Như trường hợp Đức-Bồ-tát đạo-sĩ tạo pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng với đại-thiện-tâm có trung-dung tâm-sở, dù lũ trẻ con tinh nghịch quậy phá như thế nào, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ vẫn không hề phát sinh sân-tâm ghét chúng nó. Và dù những người thiện-trí có đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, đem những đoá hoa, vật thơm, vật thực ngon lành đến cúng dường, Đức-Bồ-tát vẫn không phát sinh tâm-từ thương yêu họ.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ không hề có tâm thiên vị đối với các chúng-sinh xấu hoặc tốt. Đại-thiện-tâm của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ ví như cái cân không thiên vị bất cứ vật gì dù tốt, dù xấu, dù quý, dù không quý, v.v… cái cân vẫn chỉ đúng theo trọng lượng của vật ấy mà thôi.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

“Sukhapatto na rajjāmi, dukkhe na homi dummano.

Sabbattha tulito homi, esā me upekkhāpāramī.”

Khi sự an-lạc phát sinh, Như-Lai không say đắm.

Trong cảnh khổ, Như-Lai không sầu não.

Như-Lai cân bằng trong mọi đối-tượng.

Đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật bậc thượng

của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, tiền-kiếp Như-Lai.

(Xong phần pháp-hạnh tâm xả ba-la-mật bậc thượng)

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app