Nội Dung Chính
Rằm tháng tư – Đức-Bồ-tát đản-sinh
Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī biết gần đến ngày đản-sinh Thái-tử, theo truyền thống, Bà đến chầu Đức-vua Suddhodana rồi tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ hạ, thần thiếp xin phép trở về cố quốc Devadaha để sinh hạ Thái-tử.
Đức-vua Suddhodana chuẩn tấu lời xin của Bà và truyền lệnh cho các quan sửa sang đường sá bằng phẳng, trang hoàng đẹp đẽ từ kinh-thành Kapilavatthu cho đến kinh-thành Devadaha để tiễn đưa Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī trở về cố quốc. Đức-vua còn truyền lệnh làm một chiếc kiệu mới thật sang trọng để cho Chánh-cung Hoàng-hậu ngự đi.
Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī được thỉnh ngự lên chiếc kiệu, các quan khiêng chiếc kiệu đi từ kinh-thành Kapilavatthu đến kinh-thành Devadaha.
Trên đường, khi đoàn người vừa đến khu vườn Lumbinī, hôm ấy, thật tuyệt vời! Cả muôn hoa đều đua nở và muôn chim cùng ca hót như hân hoan đón mừng một sự kiện trọng đại. Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī muốn dừng kiệu lại, ghé vào khu vườn Lumbinī để du lãm.
Chư-thiên, chư phạm-thiên tụ hội
Khi Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī ngự vào khu vườn Lumbinī, thì chư-thiên, chư phạm-thiên cũng tụ hội tại khu vườn và cả vạn thế giới chúng-sinh vui mừng reo hò rằng:
“Hôm nay, tại khu vườn Lumbinī này, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sẽ đản-sinh ra đời khỏi lòng Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmayādevī.”
Chư-thiên, chư phạm-thiên tay cầm những món quà từ cõi trời như vật thơm trời, những đóa hoa trời, nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cùng với những chiếc lọng trắng che phủ khắp không gian.
Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī ngự đến một cây Sāla có thân to, cành cây đầy hoa đang nở rộ. Khi Chánh-cung Hoàng-hậu đứng đưa cánh tay phải lên thì cành cây tự nhiên sà xuống, Bà đưa tay nắm lấy cành cây với tư thế dáng đứng vững vàng và trong tư thế dáng đứng này sẽ đản sinh ra Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng.
Khi ấy, các quan, các cung nữ che màn xung quanh nơi Bà đang đứng. Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī đứng trong tư thế dáng đứng vững vàng.
Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng đản sinh ra đời khỏi lòng Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī bằng đôi chân ra trước, rồi xuôi hai tay, toàn thân mình sạch sẽ ra sau một cách suôn sẽ an toàn cả Đức-Bồ-tát lẫn mẫu-hậu của Ngài vào ban ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng tư (âm-lịch). Khi ấy, hai dòng nước ấm và lạnh từ trên hư không chảy xuống làm cho sạch sẽ thân hình của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác và mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát.
Khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng vừa ra khỏi lòng Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī, trước tiên 4 vị Đại-phạm-thiên có đại-thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, mỗi vị cầm mỗi chéo tấm lưới bằng vàng đón nhận Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác xong, rồi đưa trước mặt bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī và tâu rằng:
– Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, kính xin Bà phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ! Đây là Thái-tử của Bà, cũng là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng kiếp chót, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Bồ-tát là Bậc Đại-phước có nhiều oai lực nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh muôn loài.
Sau đó, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng từ trên tay 4 vị Đại-phạm-thiên được trao sang cho 4 vị Tứ-Đại-thiên-vương đón tiếp bằng tấm da mềm mại. Một lần nữa, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng từ trên tay 4 vị Tứ-Đại-thiên-vương được trao sang cho các quan đón tiếp bằng tấm vải trắng tinh.
Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng từ trên tay các quan, bước xuống đạp trên mặt đất bằng đôi bàn chân bằng phẳng. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng đứng quay mặt nhìn về hướng Đông, chư-thiên và nhân-loại dâng hoa cúng dường Đức-Bồ-tát, rồi tán dương ca tụng rằng:
– Kính bạch Đức Đại-nhân, tất cả chúng-sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.
Tiếp đến, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng quay mặt nhìn về hướng Đông-Nam, hướng Nam, hướng Tây-Nam, hướng Tây, hướng Tây-Bắc, hướng Bắc, hướng Đông-Bắc, trong tám hướng, mỗi hướng chư-thiên và nhân-loại đều dâng hoa cúng dường Đức-Bồ-tát rồi tán dương ca tụng rằng:
– Kính bạch Đức Đại-nhân, tất cả chúng-sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, chư-thiên, chư phạm-thiên đều dâng hoa tán dương và ca tụng:
– Kính bạch Đức Đại-nhân, chư-thiên, chư phạm-thiên hướng trên này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có chư-thiên, chư phạm-thiên nào cao thượng hơn Ngài.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng đứng nhìn về hướng Bắc rồi bước đi 7 bước, bước đầu tiên Đức-Bồ-tát bước bằng chân phải. Khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng bước đi, Đức-vua trời Phạm-thiên cầm chiếc lọng màu trắng che cho Đức-Bồ-tát, Đức-vua Suyāma cầm quạt lông, còn ba thứ khác là đôi hia, gươm báu, vương miện, mỗi Đức-vua trời cầm mỗi thứ đi theo sau Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng.
Đó là năm báu vật của lễ phong Vương.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng dừng lại ở bước chân thứ 7. Khi ấy tất cả chư-thiên, chư phạm-thiên đều bảo với nhau rằng:
“Bây giờ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng sẽ truyền dạy những lời tối quan trọng.”
Đức-Bồ-tát truyền dạy lời tối quan trọng đầu tiên
Tất cả đều im lặng, chờ lắng nghe, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng dõng dạc truyền dạy rằng:
“Aggo’ ham’ asmi lokassa!
Jeṭṭho’ ham’ asmi lokassa!
Seṭṭho’ ham’ asmi lokassa!
Ayamantimā jāti.
Natthi dāni punabbhavo.”[1]
“Ta là Bậc cao-cả nhất, trong toàn cõi-giới chúng-sinh!
Ta là Bậc vĩ-đại nhất, trong toàn cõi-giới chúng-sinh!
Ta là Bậc tối-thượng nhất, trong toàn cõi-giới chúng-sinh!
Kiếp này là kiếp chót của ta.
Ta không còn tái-sinh kiếp nào khác nữa!”
Chư-thiên, chư phạm-thiên và nhân-loại vô cùng hoan hỷ, đồng thanh tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng.
Người và vật gồm 7 thứ đồng sinh với Đức-Bồ-tát
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đản sinh ra đời, đồng thời có người và vật gồm 7 thứ cùng sinh với Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác:
1- Công-chúa Bhaddakaccānā gọi Yasodharā là công-chúa của Đức-vua Suppabuddha và Chánh-cung Hoàng-hậu Amitādevī xứ Devadaha.
2- Hoàng-tử Ānanda (Hoàng-tử của ông hoàng Amitodana dòng Sakya là hoàng đệ của Đức-vua Suddhodana).
3- Channa (quan giữ ngựa).
4- Kāḷudāyī (vị quan cận thần).
5- Ngựa báu Kaṇḍaka.
6- Cây Mahābodhirukkha (cây assattha mọc trong khu rừng Uruvelā sau này trở thành cây Mahābodhirukkha của Đức-Phật Gotama).
7- Bốn hầm vàng, kho báu trong kinh-thành Kapilavatthu.
Sau khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử đản-sinh ra đời tại khu vườn Lumbinī, Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī cùng Thái-tử ngự trở về lại kinh-thành Kapilavatthu.
Đầu thai sinh làm người có 4 hạng người
Sự tái-sinh đầu thai sinh làm người có 4 hạng người, và có sự hiểu biết qua ba thời-kỳ khác nhau như sau:
1- Hạng người thường và chư Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường khi tái-sinh đầu thai sinh làm người hoàn toàn không biết cả ba thời-kỳ:
– Không biết thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.
– Không biết thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
– Không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
2- Chư Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác kiếp chót khi tái-sinh đầu thai sinh làm người chỉ biết một thời-kỳ và không biết hai thời-kỳ:
– Trí-tuệ biết thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.
– Không biết thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
– Không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
3- Chư Bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác và chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót khi tái-sinh đầu thai làm người biết được hai thời-kỳ và không biết một thời-kỳ:
– Trí-tuệ biết thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.
– Trí-tuệ biết thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
– Không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
4- Chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót khi tái-sinh đầu thai làm người biết rõ cả ba thời-kỳ:
– Trí-tuệ biết rõ thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.
– Trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
– Trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đản sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
Như trường hợp Thái-tử Siddhattha là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt kiếp chót, khi tái-sinh đầu thai sinh làm người chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ cả ba thời-kỳ:
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẫu-hậu là Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī.
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đang ở trong lòng mẫu-hậu, như ở trong căn phòng sạch sẽ sang trọng, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ngồi kiết già, như một vị Pháp-sư ngồi trên pháp tòa và mẫu-hậu của Ngài cũng biết được Ngài nữa.
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đản sinh, khi mẫu-hậu của Ngài đang đứng trong tư thế vững vàng, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sinh ra bằng đôi chân ra trước, xuôi hai tay toàn thân mình ra sau một cách suôn sẻ an toàn như vị Pháp-sư bước xuống pháp tòa.
Đó là trường hợp đặc biệt của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Còn các hạng người khác như: hạng người thường, chư Bồ-tát thanh-văn-giác, chư Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác kiếp chót, chư Bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác kiếp chót, chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót đều không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ. Bởi vì khi sắp sinh ra, thai nhi bị nhào lộn quay đầu xuống dưới để cái đầu ra trước, thân mình ra sau, chịu đau đớn sợ hãi, tâm không còn bình tĩnh. Do đó, những hạng người ấy không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
[1] Dīghanikāya, Mahāvaggapāḷi, Mahāpadānasutta.
Bài viết trích từ cuốn Ngày Rằm Tháng Tư Trong Phật Giáo – Tỳ Khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) biên soạn. Xem bản PDF cuốn sách tại đây. Xem bộ Nền Tảng Phật Giáo và các sách khác cùng tác giả tại đây.