Gahaṭṭhasīla: Giới người tại-gia

Người tại-gia có các loại giới là:

– Ngũ-giới (pañcasīla) là thường-giới.

– Ngũ-giới hành phạm-hạnh cao thượng.

– Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cũng là thường-giới.

– Bát-giới uposathasīla.

– Cửu-giới uposathasīla.

– Thập-giới của người tại-gia.

1- Ngũ-Giới (pañcasīla) là thường-giới

* Ngũ-Giới (pañcasīla) là thường-giới (niccasīla) cho tất cả mọi người trong đời không ngoại trừ một ai cả, dù người có thọ-trì ngũ-giới, dù không thọ-trì ngũ-giới, tất cả mọi người cũng đều phải có bổn phận giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, bởi vì ngũ-giới là thường giới của mọi người.

Nếu người nào giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì người ấy tạo được đại-thiện-nghiệp ngũ-giới, đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Nếu người nào phạm điều-giới nào trong ngũ-giới thì người ấy đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, đem lại điều bất lợi, điều thoái hoá, sự khổ thân, khổ tâm trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

* Đối với cận-sự-nam,cận-sự-nữ phàm-nhân có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, tin 5 quả báu của phước-thiện giữ giới, tin 5 quả xấu của ác-nghiệp phạm giới, nên sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, để tạo phước-thiện giữ giới, đó là phước-thiện cao quý hơn phước-thiện bố-thí.

Nghi thức phép thọ quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới

Theo truyền thống Phật-giáo Theravāda, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.

Trước khi thọ phép quy-y Tam-bảo, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ xin làm lễ xin sám hối Tam-bảo: sám hối Đức-Phật-bảo, sám hối Đức-Pháp-bảo, sám hối Đức-Tăng-bảo, v.v…thực-hành theo nghi thức:

* Lễ sám hối Tam-bảo

– Lễ sám hối Đức-Phật-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.

Buddhe yo khalito doso, buddho khamatu taṃ mama.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,

Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ một lạy)

– Lễ sám hối Đức-Pháp-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, dhammañca duvidhaṃ varaṃ.

Dhamme yo khalito doso, dhammo khamatu taṃ mama.

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học và pháp-hành.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,

Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ một lạy)

– Lễ sám hối Đức-Tăng-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, saṃghañca duvidhuttamaṃ.

Saṃghe yo khalito doso, saṃgho khamatu taṃ mama.

\Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.

Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,

Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ một lạy)

* Bài Kệ Cầu Nguyện

Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.

Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.

Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,

Cầu xin mọi tai-hại hãy đều tiêu diệt.

Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,

Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.

* Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới

Ahaṃ(1) Bhante, tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi(2) , anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me(3) . Bhante.

Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.

Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.

– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.

– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con. Bạch Ngài.

– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.

– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.

– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.

– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.

* Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới

Hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ- giới như sau:

Ngài Trưởng-lão truyền dạy rằng:

– Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi(2) (vadetha).

(Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, con hãy nên lặp lại đúng từng chữ từng câu như thế ấy).

Người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ thưa rằng:

– Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).

* Đảnh lễ Đức-Phật

Ngài Trưởng-lão hướng dẫn đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rằng:

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

* Thọ phép quy-y Tam-bảo

Sau khi đảnh lễ Đức-Phật xong, Ngài Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo, như sau:

– Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.

– Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.

– Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

– Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.

– Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.

– Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.

– Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.

– Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.

– Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.

NTL(1): Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

CSN : Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

* Thọ-trì ngũ-giới

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ- trì ngũ-giới:

1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.

2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.

3- Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ

samādiyāmi.

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự tà-dâm.

4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.

5- Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi-sikkhapadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ-trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm).

NTL: Tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādehi.(1)

(Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới xong rồi, con (các con) nên cố gắng giữ gìn được trong sạch và trọn vẹn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát triển).

CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).

NTL: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng-sinh tái-sinh cõi trời nhờ giữ giới,

Chúng-sinh đầy đủ của cải nhờ giữ giới,

Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn nhờ giữ giới,

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!

CSN: Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!).

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ- giới, tiếp theo cận-sự-nam (hoặc cận-sự-nữ) nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức-tin như sau:

Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ(1)

.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới của người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ.

Đó là cách thọ-trì riêng từng mỗi điều-giới của ngũ-giới.

* Cách thọ-trì chung 5 điều-giới trong ngũ-giới cùng một lần như sau:

“Pañcasīlaṃ samādiyāmi”.

Con xin thọ trì ngũ-giới. Hoặc

“Pañcasikkhāpadaṃ samādiyāmi”.

Con xin thọ trì năm điều-giới. Hoặc

“Pañcaṅgasamannāgataṃ sīlaṃ samādiyāmi.”

Con xin thọ trì ngũ-giới gồm có 5 điều-giới.

Theo cách thọ-trì chung 5 điều-giới trong ngũ-giới cùng một lần, nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào phạm một điều-giới nào trong ngũ-giới thì xem như người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy đã phạm ngũ-giới, bởi vì tác-ý thọ-trì chung 5 điều-giới cùng một lần. Cho nên, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy cần phải thọ-trì ngũ-giới trở lại.

Còn theo cách thọ-trì riêng từng mỗi điều-giới trong ngũ-giới, nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào phạm một điều-giới nào trong ngũ-giới thì các điều-giới còn lại vẫn chưa bị phạm, bởi vì tác-ý thọ-trì riêng mỗi điều- giới, nên người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy chỉ cần phải thọ-trì điều-giới ấy trở lại.

Vấn: Người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới và người bạn không thọ trì ngũ-giới, nếu 2 người ấy cùng nhau phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say, thì ác-nghiệp của 2 người ấy khác nhau như thế nào?

Đáp: Người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới và người bạn không thọ-trì ngũ-giới, nếu 2 người ấy cùng nhau phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say, thì người cận-sự-nam có thọ-trì ngũ-giới tạo ác-nghiệp nhẹ, còn người bạn không thọ-trì ngũ-giới, tạo ác-nghiệp nặng hơn nhiều.

Vì sao? Người cận-sự-nam thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, khi gặp lại người bạn mời vào quán trò chuyện hàn huyên, mời uống rượu, bia; vì cả nể bạn, không thể từ chối được, nên bất đắc dĩ đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy, đã tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say.

Sau khi đã lỡ phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy rồi, người cận-sự-nam ấy thọ-trì ngũ-giới có điều-giới tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, nên cận-sự-nam ấy trở thành người có giới như trước.

Còn người bạn tuy không thọ-trì ngũ-giới, sau khi đã phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy, tạo ác-nghiệp vẫn uống rượu, bia và các chất say ấy, rồi không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết phục thiện, nên vẫn là người không có giới.

Vì vậy, người không thọ-trì ngũ-giới tạo ác-nghiệp nặng hơn người cận-sự-nam có thọ-trì ngũ-giới.

Trong bộ Milindapañhā có ví dụ: Một thỏi sắt cháy nóng, một người biết thỏi sắt cháy nóng, bắt buộc phải tiếp xúc với thỏi sắt cháy nóng ấy, người ấy thận trọng đưa tay chạm vào thỏi sắt ấy, nên chỉ bị nóng phỏng nhẹ mà thôi.

Còn một người không biết thỏi sắt cháy nóng ấy mà nắm trọn thỏi sắt ấy trong tay, nên bị cháy phỏng nặng.

Cũng như vậy, người cận-sự-nam đã thọ-trì ngũ-giới, vì cả nể bạn, nên bất đắc dĩ phải phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy rồi, nên tạo ác-nghiệp nhẹ hơn người bạn không thọ trì ngũ-giới.

Còn người bạn cũ không thọ trì ngũ-giới, khi phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say ấy, nên tạo ác-nghiệp nặng hơn nhiều.

Đó là tính chất ưu việt của người cận-sự-nam thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.

Bài viết trích từ cuốn Phước ThiệnTỳ Khưu Hộ Pháp biên soạn. Quý vị có thể tải sách bản PDF tại đây.

AUDIO TOÀN BỘ CUỐN SÁCH PHƯỚC THIỆN

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app