10 phước-thiện gom lại thành 3 nhóm phước-thiện

1- Dānakusala: Phước-thiện bố-thí.

2- Sīlakusala: Phước-thiện giữ-giới.

3- Bhāvanākusala: Phước-thiện hành-thiền.

4- Apacāyanakusala: Phước-thiện cung-kính.

5- Veyyāvaccakusala: Phước-thiện hỗ-trợ.

6- Pattidānakusala: Phước-thiện hồi-hướng.

7- Pattānumodanakusala: Phước-thiện hoan-hỷ.

8- Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe-pháp.

9- Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết-pháp.

10- Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến.

Mười phước-thiện gom lại thành 3 nhóm phước-thiện chính có điểm tương tự giống nhau:

– Nhóm phước-thiện bố-thí.

– Nhóm phước-thiện giữ-giới.

– Nhóm phước-thiện hành-thiền.

1- Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 loại phước-thiện là dānakusala: phước-thiện bố-thí, pattidānakusala: phước-thiện hồi-hướng, pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ.

2- Nhóm phước-thiện giữ-giới gồm có 3 loại phước-thiện là sīlakusala: phước-thiện giữ-giới, apacāyana-kusala: phước-thiện cung-kính và veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ.

3- Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 loại phước-thiện là bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền, dhammassavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhamma-desanākusala: phước-thiện thuyết-pháp, diṭṭhijukamma-kusala: phước-thiện chánh-kiến.

Giải Thích

1- Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 loại phước-thiện là dānakusala: phước-thiện bố-thí, pattidāna-kusala: phước-thiện hồi-hướng và pattānumodanā-kusala: phước-thiện hoan-hỷ.

Trong nhóm phước-thiện bố-thí này có 2 phước-thiện là pattidānakusala và pattānumodanākusala đều có 2 pháp nghịch là macchariya: tâm keo kiệt bủn xỉn trong của cải tài sản của mình và issā: tâm ganh tị trong của cải tài sản hay tài đức của người khác giống như phước-thiện bố-thí.

Vì vậy, 3 loại phước-thiện là dānakusala: phước-thiện bố-thí, pattidānakusala: phước-thiện hồi-hướng và pattānumodanākusala: phước-thiện hoan-hỷ này có điểm tương tự giống nhau, nên gom chung vào nhóm phước-thiện bố-thí (dānamayakusala).

2- Nhóm phước-thiện giữ-giới gồm có 3 phước-thiện là sīlakusala: phước-thiện giữ-giới, apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính và veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ. Trong nhóm này, sīlakusala: phước-thiện giữ-giới đó là cetanā: tác-ý tâm-sở trong đại-thiện-tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa 3 thân hành-ác, tránh xa 4 khẩu nói-ác, làm cho thân và khẩu đàng hoàng.

* Apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính đối với những bậc đáng tôn kính, cung-kính đối với tất cả mọi người đáng cung-kính. Người có pháp cung-kính biểu hiện bằng thân cung-kính lễ bái cúng dường, bằng khẩu cung-kính nói lời lễ độ, v.v…

* Veyyāvaccakusala: Phước-thiện hỗ-trợ trong mọi việc thiện của người khác. Người có pháp hỗ-trợ trong mọi việc phước-thiện của người khác, biểu hiện bằng thân tận tình giúp đỡ mọi người, bằng khẩu chân tình nói lời chỉ dẫn mọi người.

Apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính và veyyā- vaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ là 2 phước-thiện thuộc về carittasīla: giới nên hành của chư bậc xuất gia tỳ-khưu, sa-di và người tại-gia là cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

Vì vậy, 3 loại phước-thiện là sīlakusala: phước-thiện giữ-giới, apacāyanakusala: phước-thiện cung-kính và veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ-trợ này có điểm tương tự giống nhau, nên gom chung vào nhóm phước-thiện giữ-giới (sīlamayakusala).

3- Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 phước-thiện là bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền, dham-massavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhamma-desanākusala: phước-thiện thuyết-pháp và diṭṭhiju-kammakusala: phước-thiện chánh-kiến. Trong nhóm này, dhammassavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết-pháp và diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến có trạng-thái làm cho thiện-pháp bậc cao phát sinh lên đầu tiên, rồi làm cho thiện-pháp ấy phát triển giống như bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền là thực-hành pháp-hành thiền-định và thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

Vì vậy, 4 loại phước-thiện là bhāvanākusala: phước-thiện hành-thiền, dhammassavanakusala: phước-thiện nghe-pháp, dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết-pháp và diṭṭhijukammakusala: phước-thiện chánh-kiến này có trạng-thái tương tự giống nhau, nên gom chung vào nhóm phước-thiện hành-thiền (bhāvanāmaya-kusala).

Tuy nhiên, dhammadesanākusala và diṭṭhijukamma-kusala được ghép theo Phật-ngôn và Chú-giải như sau:

* Đức-Phật dạy rằng:

“Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti”(1)

.Pháp-thí là cao thượng hơn tất cả mọi sự bố-thí.

Như vậy, dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết-pháp được ghép vào với dānakusala: phước-thiện bố-thí.

* Chú-giải Pāḷi, bộ Pāthikavaggaṭṭhakathā, Kinh Saṅgītisuttavaṇṇanā giảng giải rằng:

“Diṭṭhijukammaṃ sabbesaṃ niyāmalakkhaṇaṃ”(2)

Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến có trạng-thái điều hòa và hỗ-trợ cho tất cả 10 phước-thiện puññakriyāvatthu.

Như vậy, diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến được ghép vào với nhóm phước-thiện bố-thí (dānamaya-kusala), nhóm phước-thiện giữ-giới (sīlamayakusala) và nhóm phước-thiện hành-thiền (bhāvanāmayakusala).

* Nếu thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí, hành-giả thực-hành pháp-hành giữ-giới, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ thì nhóm phước-thiện bố-thí, nhóm phước-thiện giữ-giới, nhóm phước-thiện hành-thiền, các phước-thiện ấy thuộc về đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).

* Nếu đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala) có đủ 3 thiện-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ).

Hoặc tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới, có nhiều oai lực, có hào quang rực rỡ, chói lọi khắp mọi nơi, …

* Nếu thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí, hành-giả thực-hành pháp-hành giới, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không có diṭṭhi-jukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ-trợ thì nhóm phước-thiện bố-thí, nhóm phước-thiện giữ-giới, nhóm phước-thiện hành-thiền, các phước-thiện ấy thuộc về đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, chỉ có 2 nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).

* Nếu đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân (dvihetukapuggala) chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si (trí-tuệ).

Hoặc tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới, có ít oai lực, có ít hào quang, …

Cho nên, diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến có vai trò quan trọng hỗ-trợ trong khi tạo phước-thiện nào trong 10 loại phước-thiện, để cho phước-thiện ấy trở thành cao quý, có nhiều quả báu cao quý đáng hài lòng hoan-hỷ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Dānakusala, sīlakusala, bhāvanākusala

Để có được sự nhận thức so sánh về phước-thiện và quả của phước-thiện hoặc đại-thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp của 3 nhóm phước-thiện là nhóm phước-thiện bố-thí (dānamayakusala), nhóm phước-thiện giữ-giới (sīlamayakusala), nhóm phước-thiện hành-thiền (bhāvanāmayakusala), qua sự tìm hiểu bài kinh Velāmasutta(1) được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, ông phú hộ Anāthapiṇḍika đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, Đức-Thế-Tôn hỏi ông phú hộ Anāthapiṇḍika rằng:

– Này ông phú hộ! Trong gia đình ông vẫn còn tạo phước-thiện bố-thí phải không?

Ông phú hộ Anāthapiṇḍika kính bạch rằng:

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trong gia đình con vẫn còn tạo phước-thiện bố-thí, nhưng sự bố-thí ấy của con hiện nay là quá tầm thường, chỉ có cơm nấu bằng gạo lép và nước cải ngâm mà thôi.

Quả của phước-thiện bố-thí không cung-kính

Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

– Này ông phú hộ! Người thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí bằng những vật thí tầm thường hoặc cao quý, mà bố-thí với tâm không cung-kính, cúng dường không cung-kính, không tự tay mình cung-kính cúng dường, đem vật dư thừa bố-thí, không có đức-tin nơi đại-thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí.

Nếu đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy có cơ hội cho quả tái- sinh kiếp sau làm người trong gia đình giàu có thì người ấy sẽ không hướng tâm dùng những món ăn ngon, sẽ không mặc những y phục bằng các thứ vải tốt, sẽ không sử dụng chiếc xe sang trọng, sẽ không hưởng những ngũ dục an-lạc.

Những người thuộc hạ của người ấy như vợ con, tôi tớ, người làm công, bạn bè, v.v… sẽ không vâng lời, sẽ không để tâm đến lời dạy bảo của người ấy.

Những điều ấy là do quả của nghiệp nào?

Những điều ấy là do quả của ác-nghiệp không cung-kính của người ấy.

Quả của phước-thiện bố-thí cung-kính

– Này ông phú hộ! Người thí-chủ tạo phước-thiện bố thí bằng những vật thí tầm thường hoặc cao quý, mà bố-thí với tâm cung-kính, cúng dường với tâm cung-kính, tự tay mình cung-kính cúng dường, không đem vật dư thừa bố-thí, có đức-tin nơi đại-thiện-nghiệp bố-thí và quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí.

Nếu đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người trong gia đình giàu có thì người ấy sẽ hướng tâm dùng những món ăn ngon, sẽ mặc những y phục bằng các thứ vải tốt, sẽ sử dụng chiếc xe sang trọng, sẽ hưởng những ngũ dục an-lạc.

Những người thuộc hạ của người ấy như vợ con, tôi tớ, người làm công, bạn bè, v.v… sẽ vâng lời, sẽ để tâm đến lời dạy bảo của người ấy.

Những điều ấy là do quả của nghiệp nào?

Những điều ấy là do quả của đại-thiện-nghiệp cung-kính của người ấy.

Tạo phước-thiện đại-thí ngoài Phật-giáo

– Này ông phú hộ! Chuyện đã từng có, một Bà-la-môn tên Velāma (tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama) tạo phước-thiện đại-thí như vầy:

– Bố-thí 84.000 mâm vàng đầy vàng bạc (rūpiya).

– Bố-thí 84.000 mâm vàng bạc (rūpiya) đầy vàng.

– Bố-thí 84.000 mâm đồng đầy bạc.

– Bố-thí 84.000 con voi gồm đầy đủ đồ trang sức làm bằng vàng.

– Bố-thí 84.000 chiếc xe được bao bọc bằng da sư tử, da cọp,…

– Bố-thí 84.000 con bò sữa cùng với đồ đựng sữa bằng bạc,…

– Bố-thí 84.000 cô gái trẻ đẹp cùng với đồ trang sức ngọc maṇī,…

– Bố-thí 84.000 chiếc ghế ngồi được trang hoàng bằng những thứ quý giá,…

– Bố-thí 84.000 x 10.000.000 vải đủ loại đặc biệt.

Ngoài ra, bố-thí đồ ăn, đồ uống, các đồ dùng khác nhiều như nước sông chảy không sao kể xiết.

– Này ông phú hộ! Trong thời quá khứ ấy, Như-Lai là vị Bà-la-môn Velāma tạo phước-thiện đại-thí, nhưng không có bậc xứng đáng cúng dường (thời đại không có Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng).

Tạo phước-thiện bố-thí trong Phật-giáo

– Này ông phú hộ! Người nào tạo phước-thiện bố-thí đến bậc Thánh Nhập-lưu có chánh-kiến đầy đủ, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn ông Bà-la-môn Velāma tạo phước-thiện bố-thí trong thời quá khứ ấy suốt 7 năm và 7 tháng.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Nhập-lưu, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh Nhập-lưu.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh Nhất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh Nhập-lưu.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Nhất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh Nhất-lai.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh Bất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh Nhất-lai.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh Bất-lai, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh Bất-lai.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 bậc Thánh A-ra-hán, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh Bất-lai.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 bậc Thánh A-ra-hán, thì người ấy có phước-thiện nhiều có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 bậc Thánh A-ra-hán.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 1 Đức-Phật Độc-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 bậc Thánh A-ra-hán.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến 100 Đức-Phật Độc-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 1 Đức-Phật Độc-Giác.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí đến 100 Đức-Phật Độc-Giác.

* Người nào tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người làm phước bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Chánh-Đẳng Giác.

* Người nào xây cất chỗ ở dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.

* Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người xây dựng chỗ ở dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng từ tứ phương

.

* Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có tác-ý đại-thiện-tâm trong sạch thọ trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo.

* Người hành-giả nào thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả chúng-sinh, trong khoảng thời gian khoảnh khắc ngửi mùi thơm, thì người hành-giả ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người có đức-tin trong sạch thọ trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn.

* Và người nào thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, trong khoảng thời gian khoảnh khắc bằng búng đầu ngón tay, thì người ấy có phước-thiện nhiều, có quả báu nhiều hơn người tiến hành-thiền định với đề-mục rải tâm-từ vô-lượng đến tất cả chúng-sinh, trong khoảng thời gian khoảnh khắc ngửi mùi thơm.

Nhận xét về bài kinh Velāmasutta

Qua bài kinh Velāmasutta để có sự nhận thức so sánh về phước-thiện và quả của phước-thiện như sau:

* Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí với đại-thiện-tâm cung-kính, có nhiều phước-thiện bố-thí, có nhiều quả báu của phước-thiện bố-thí hơn thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí với đại-thiện-tâm không cung-kính.

* Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí trong Phật-giáo dù ít với thời gian ngằn, vẫn có nhiều phước-thiện bố-thí cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện bố-thí cao quý hơn thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí ngoài Phật-giáo dù nhiều với thời gian lâu dài, vẫn có ít phước-thiện bố-thí, có ít quả báu của phước-thiện bố-thí.

* Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường dù ít đến một bậc có giới-đức cao thượng, vẫn có nhiều phước-thiện bố-thí cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện bố-thí cao quý hơn thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí dù nhiều đến nhiều người không có giới-đức.

* Thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí cúng dường dù ít đến một bậc có ân-đức càng cao thượng thì càng có nhiều phước-thiện bố-thí cao quý hơn nữa, có nhiều quả báu của phước-thiện bố-thí cao quý hơn nữa.

* Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo là quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo, có phước-thiện cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện cao quý hơn thí-chủ tạo phước-thiện bố-thí dù nhiều trong thời gian lâu dài, hoặc xây dựng chỗ ở to lớn, rồi làm lễ dâng cúng-dường đến chư tỳ-khưu-Tăng tứ phương thọ nhận.

* Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, có phước-thiện giữ giới cao quý, có nhiều quả báu của phước-thiện giữ giới cao quý.

* Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô-lượng dù trong thời gian khoảnh khắc ngửi mùi thơm, cũng có nhiều phước-thiện cao quý, có nhiều quả báu cao quý hơn phước-thiện thọ trì giữ-giới được trong sạch và trọn vẹn.

* Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp, … dù trong thời gian khoảnh khắc búng đầu ngón tay, cũng có nhiều phước-thiện cao quý, có nhiều quả báu cao quý hơn phước-thiện thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô-lượng.

Như vậy, người thiện nào tạo phước-thiện nào, có được nhiều hoặc ít phước-thiện ấy, có quả báu nhiều hoặc ít của phước-thiện ấy là hoàn toàn tùy thuộc vào đối-tượng với đại-thiện-tâm bậc cao hoặc đại-thiện-tâm bậc thấp đối với người thiện ấy trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:

– Pubbacetanā: tác-ý trước khi tạo phước-thiện ấy.

– Muñcacetanā: tác-ý đang khi tạo phước-thiện ấy.

– Aparacetanā: tác-ý sau khi tạo phước-thiện ấy.

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app