Giáo Án Trường Bộ Kinh – Kinh Ưu Đàm Bà La Sư Tử Hống (udumbarikà Sìhanàda Sutta)

Giáo Án Trường Bộ Kinh 

Kinh Ưu Đàm Bà La Sư Tử Hống (Udumbarikà Sìhanàda Sutta)

Xuất Xứ:

Từ núi GIJJHAKÙTA thuộc RÀJAGAHA, đức Phật đi đến vườn nuôi dưỡng chim Khổng Tước, bên bờ sông SUMÀGADHÀ, để đàm thoại với du sĩ NIGODHA, liên quan đến vấn đề tu Khổ Hạnh.

Duyên Khởi:

Gia chủ SANDHÀNA đi đến vườn của nữ hoàng UDUMBARIKÀ để thăm Hội Chúng của du sĩ ngoại đạo NIGODHA, và đã so sánh nếp sống ồn ào của Hội Chúng NIGODHA với nếp sống an tịnh của Hội Chúng đức Thế Tôn. Nhân đó, du sĩ NIGODHA liền thách đố đức Phật đến biện luận với mình, và xem có thể chận đứng ngay, có thể lăn tròn đức Phật như lăn tròn cái bình không.

Chánh Kinh:

Đức Phật thuyết giảng về sự thành tựu khổ hạnh và sự không thành tựu khổ hạnh

Đức Phật đề nghị với du sĩ NIGODHA hãy nên vấn hỏi Ngài về vấn đề Tối Thắng Khổ Hạnh theo truyền thống của NIGODHA, đã làm cho Hội Chúng của Du Sĩ khởi tâm kinh ngạc, “Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, đại thần lực, và đại uy lực của Sa Môn GOTAMA, Ngài không đề cập đến giáo lý của mình, mà lại đề nghị thảo luận giáo lý của người khác!” 

Và du sĩ NIGODHA đã vấn hỏi: “Thế nào là sự thành tựu Khổ Hạnh? Thế nào là sự không thành tựu Khổ Hạnh?”

Theo đức Phật, các hạnh tu Khổ Hạnh có thể đưa đến nhiều loại cấu uế cho người thực hành. Và có tất cả 16 trường hợp của sự Khổ Hạnh đưa đến sự cấu uế cho người thực hành:

  • Do siêng tu Khổ Hạnh, phát sanh hoan hỷ tâm tư thỏa mãn.
  • Do siêng tu Khổ Hạnh, khởi lên khen mình chê người.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, trở thành mê say, nhiễm trước, phóng dật.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, được thọ lãnh cúng dường, cung kính, danh vọng, trở thành hoan hỷ tâm tư thỏa mãn.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, được cung kính, cúng dường, danh vọng, nên khen mình chê người.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, được cung kính, cúng dường, danh vọng, trở thành mê say, chấp trước, phóng dật.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, khởi lên sự phân biệt các thức ăn. Với các thức ăn thích hợp thì nắm giữ, tham đắm, chấp trước, không thấy sợ các sự nguy hiểm và không giải thoát khỏi chúng. Với các thức ăn không thích hợp thì cố ý từ bỏ.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, khởi lên sự mong mỏi được sự cúng dường, cung kính, danh vọng ở các vua chúa, đại thần, Sát Đế Lỵ, Bà La Môn, v…
  • Do tu hành Khổ Hạnh, khởi lên sự chống báng những vị Sa Môn, Bà La Môn khác, v…
  • Do tu hành Khổ Hạnh, khởi sanh tật đố, ganh tỵ đối với các gia đình không cung kính, không cúng dường, không lễ bái mình.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, muốn trở thành người ngồi giữa công chúng.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, không muốn cho mọi người thấy sự khó khăn khi đi khất thực giữa các gia đình.
  • Do tu hành Khổ Hạnh, còn có tâm ý gian trá, không như thực, làm bộ có vẻ bí mật, cố tình nói láo.
  • Khi đức Phật hay đệ tử của Ngài thuyết pháp và dùng một phương pháp đáng được chấp nhận thì người tu hành Khổ Hạnh lại không chấp nhận.
  • Người tu hành Khổ Hạnh lại còn hay tức giận và ôm lòng oán thù.
  • Người tu hành Khổ Hạnh thường hay giả dối, lừa đảo, tật đố và hà tiện, giảo hoạt và ngụy trá, cứng cỏi và quá mạn, có ác ý và bị ác ý chi phối, có tà kiến và có tư tưởng cực đoan, chấp trước kinh nghiệm tự thân, cứng đầu, và khó giải thoát.
  • Và ngược lại với những điều Khổ Hạnh cấu uế trên, là sự Khổ Hạnh đạt đến sự thanh tịnh, đạt đến sự tối thượng, và đạt đến sự căn bản cho người thực hành.
  • Tuy nhiên theo đức Phật, những Khổ Hạnh trên, quả thật chưa đạt đến sự tối thượng, chưa đạt đến căn bản, chúng chỉ mới đạt đến vỏ bên ngoài mà thôi.

Đức Phật thuyết giảng về những Khổ Hạnh đạt đến Tối Thượng và Căn Bản

1.    Có vị Khổ Hạnh tu Bốn Pháp Chế Ngự: 

  • Không có tự sát sanh, không có bảo người khác sát sanh, không có tùy hỷ với việc sát
  • Không có lấy của không cho, không có khiến người khác lấy của không cho, không có tùy hỷ lấy của không
  • Không có nói láo, không có khiến người khác nói láo, không có tán thán sự nói láo.
  • Không có tham vọng dục tình, không có khiến người khác có tham vọng dục tình, không có tán thán tham vọng dục tình.

Với người Khổ Hạnh tu hành Bốn Pháp Chế Ngự như vậy, sự Khổ Hạnh chỉ có tiến lên và không có rơi xuống hạ phẩm.

2.    Vị Khổ Hạnh tiếp tục tu tập diệt trừ Ngũ Triền Cái:

  • Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, an trú với tâm thoát ly tham ái, gột sạch tâm hết tham ái.
  • Vị ấy từ bỏ sân tâm, an trú với tâm thoát ly sân tâm, khởi lòng thương tưởng mọi loài chúng sanh, gột sạch tâm hết sân hận.
  • Vị ấy từ bỏ hôn trầm thùy miên, an trú với tâm thoát ly hôn trầm thùy miên, tưởng niệm đến ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác, gột sạch tâm hết hôn trầm thùy miên.
  • Vị ấy từ bỏ trạo hối, an trú với tâm thoát ly trạo hối, nội tâm an tịnh, gột sạch tâm hết trạo hối.
  • Vị ấy từ bỏ nghi hoặc, an trú với tâm thoát ly nghi ngờ, không còn nghi hoặc, gột sạch tâm không còn nghi hoặc đối với các Thiện Pháp.

3.    Vị Khổ Hạnh tiếp tục tu tập phát triển Tứ Vô Lượng Tâm:

  • Vị ấy với trí tuệ làm cho các tâm cấu uế giảm nhẹ, vị ấy an trú, biến mãn từ một phương đến nhiều phương, đến cùng khắp vô biên thế giới xa gần, với tâm câu hữu với Từ Ái, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
  • Vị ấy với trí tuệ làm cho các tâm cấu uế giảm nhẹ, vị ấy an trú, biến mãn từ một phương đến nhiều phương, đến cùng khắp vô biên thế giới xa gần, với tâm câu hữu với Bi Mẫn, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
  • Vị ấy với trí tuệ làm cho các tâm cấu uế giảm nhẹ, vị ấy an trú, biến mãn từ một phương đến nhiều phương, đến cùng khắp vô biên thế giới xa gần, với tâm câu hữu với Tùy Hỷ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
  • Vị ấy với trí tuệ làm cho các tâm cấu uế giảm nhẹ, vị ấy an trú, biến mãn từ một phương đến nhiều phương, đến cùng khắp vô biên thế giới xa gần, với tâm câu hữu với Hành Xã, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

4.    Vị Khổ Hạnh dẫn Tâm hướng đến Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh (Sanh Diệt Trí):

  • Vị ấy dẫn Tâm hướng đến Túc Mạng Minh, nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
  • Vị ấy với Thiên Nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng.

Du sĩ NIGODHA tác bạch sám hối với đức Thế Tôn

  • Gia chủ SANDHÀNA nhắc lại lời thách thức của du sĩ NIGODHA đối với đức Phật, khiến cho du sĩ NIGODHA phát tâm hối hận, im lặng, ủ rũ, sụp xuống, gục đầu, ưu tư, câm miệng, và cuối cùng tác bạch sám hối tội lỗi: “Kính bạch đức Thế Tôn, con đã phạm tội một cách ngu si, mờ ám, bất thiện, khi con đã nói về Thế Tôn như vậy. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho tội ấy là phạm tội, để con ngăn ngừa về ”
  • Đức Phật xác nhận hiệu năng phương pháp tu hành của Ngài, nêu rõ mục đích của Ngài không phải chiếm đoạt đệ tử của bất luận ai, mà chỉ mong đem lại sự tự biết mình và chứng ngộ ngay trong hiện tại Phạm Hạnh và mục tiêu Vô Thượng cho những ai chân chánh thực hành.
  • Mặc dầu được sự gợi ý của đức Phật, nhưng Hội Chúng ngoại đạo của du sĩ NIGODHA đã bị Ác Ma che ám tâm thức của họ, cho nên không biết tìm sự lợi ích để đến nương tựa vào Ngài, đặng trau giồi đời sống Phạm Hạnh.

Kết Luận:

Đức Thế Tôn rống lên tiếng sư tử hống trong khu vườn của hoàng hậu UDUMBARIKÀ dành cho hàng Du Sĩ, Ngài bay trên hư không, và hạ xuống núi GIJJHAKÙTA. Còn gia chủ SANDHÀNA trở vào thành RÀJAGAHA.

*Các bài trích trong cuốn Giáo Án Trường Bộ Kinh của Tỳ Khưu PASÀDO Sán Nhiên. Nguồn Vietheravada.
Các bài viết trong sách

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app