Nội Dung Chính
Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe-pháp
Định nghĩa Dhammassavana:
“Dhammaṃ suṇanti etenā’ti dhammassavanaṃ.”
Những người nghe chánh-pháp gọi là dhammassavana, đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm có yonisomanasikāra sự hiểu biết trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp.
Nghe chánh-pháp
Nghe chánh-pháp có 2 hạng người:
1- Hạng người nào nghe chánh-pháp với ý nghĩ rằng:
“Nếu ta thường nghe chánh-pháp, hiểu được chánh-pháp, rồi thuyết giảng được chánh-pháp thì nhiều người tán dương ca tụng ta là người hiểu biết chánh-pháp.”
Như vậy, hạng người ấy nghe chánh-pháp có phước-thiện nghe-pháp không nhiều, có quả báu không nhiều.
2- Hạng người nào nghe chánh-pháp với ý nghĩ rằng:
“Ta thường nghe chánh-pháp, học hỏi hiểu biết rõ chánh-pháp, biết phân biệt phước-thiện với tội-lỗi, thiện-pháp với ác-pháp, thiện-nghiệp với ác-nghiệp, tà-kiến với chánh-kiến, pháp nên thực-hành với pháp không nên thực-hành, v.v… nên từ bỏ tà-pháp, rồi thực-hành theo chánh-pháp, để được sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.”
Như vậy, hạng người ấy nghe chánh-pháp được nhiều phước-thiện nghe-pháp (dhammassavanakusala), có nhiều quả báu của phước-thiện nghe chánh-pháp.
Nghe chánh-pháp là 1 trong 5 điều khó có được , nên Đức-Phật hằng ngày thường nhắc nhở, khuyên nhủ các hàng thanh-văn đệ-tử rằng:
“Appamādena bhikkhave sampādetha,
Buddhuppādo dullabho lokasmiṃ,
Manussattabhāvo dullabho,
Dullabhā saddhāsampatti,
Pabbajitabhāvo dullabho,
Saddhammassavanaṃ dullabhaṃ.
Evaṃ divase divase ovadati.”
Đức-Thế-Tôn hằng ngày thường khuyên nhủ, nhắc nhở chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ rằng:
– Này chư tỳ-khưu! (tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ)! Các con nên cố gắng tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không dể duôi, thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ.
* Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian là một điều khó được.
* Sinh làm người là một điều khó được.
* Có đức-tin đầy đủ là một điều khó được.
* Xuất-gia trở thành tỳ-khưu là một điều khó được.
* Nghe chánh-pháp là điều khó được.
Đó là 5 điều khó được mà người nào đã có được điều nào thì thật là hy hữu, nên trân trọng.
Thật vậy, khi nào Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, khi ấy Đức-Phật thuyết pháp giảng dạy chánh-pháp, các chúng-sinh mới có cơ hội tốt, có duyên lành được nghe chánh-pháp.
* Trong 6 ân-đức Pháp-bảo, chánh-pháp mà Đức-Phật thuyết giảng chánh-pháp có 10 pháp là:
– Pháp-học chánh-pháp (pariyatti saddhamma).
– 9 pháp siêu-tam-giới (navalokuttaradhamma) đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
* Trong kinh Mahāparinibbānasutta(1) (kinh Đại-Niết-Bàn), phần Ānandayācanakathā, Đức-Phật truyền dạy bodhipakkhiyadhamma gồm có 37 pháp giúp duy trì chánh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Bodhipakkhiyadhamma gồm có 37 pháp là:
* 4 pháp niệm-xứ (Satipaṭṭhāna):
1) Thân niệm-xứ. 2) Thọ niệm-xứ.
3) Tâm niệm-xứ. 4) Pháp niệm-xứ.
* 4 pháp-tinh-tấn (Samappadhāna):
1) Tinh-tấn ngăn các ác-pháp chưa phát sinh, không cho phát sinh.
2) Tinh-tấn diệt ác-pháp đã phát sinh.
3) Tinh-tấn làm cho thiện-pháp phát sinh.
4) Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện-pháp đã phát sinh.
* 4 pháp thành-tựu (Idhipāda):
1) Thành-tựu do hài lòng. 2) Thành-tựu do tinh-tấn.
3) Thành-tựu do quyết-tâm. 4) Thành-tựu do trí-tuệ.
* 5 pháp-chủ (Indriya):
1) Tín-pháp-chủ. 2) Tấn-pháp-chủ.
3) Niệm-pháp-chủ. 4) Định-pháp-chủ.
5) Tuệ-pháp-chủ.
* 5 pháp-lực (Bala):
1) Tín-pháp-lực. 2) Tấn-pháp-lực.
3) Niệm-pháp-lực. 4) Định-pháp-lực.
5) Tuệ-pháp-lực.
* 7 pháp giác-chi (Bojjhaṅga):
1) Niệm-giác-chi. 2) Phân-tích giác-chi.
3) Tinh-tấn giác-chi. 4) Hỷ-giác-chi.
5) Tịnh-giác-chi. 6) Định-giác-chi.
7) Xả-giác-chi.
* 8 pháp chánh-đạo (Magga):
1) Chánh-kiến. 2) Chánh-tư-duy.
3) Chánh-ngữ. 4) Chánh-nghiệp.
5) Chánh-mạng. 6) Chánh-tinh-tấn.
7) Chánh-niệm. 8) Chánh-định.
Đó là 37 pháp dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Chư Bồ-tát thanh-văn-giác nghe chánh-pháp
Chư Bồ-tát thanh-văn-giác (sāvakabodhisatta) gồm có 2 vị Bồ-tát Tối-Thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka-bodhisatta), chư vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác (Mahā-sāvakabodhisatta), chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác bậc thường (pakatisāvakabodhisatta) nếu không có cơ hội nghe chánh-pháp thì chắc chắn không thể tự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn được.
Thật vậy, tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đã từng phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất, và đã được Đức-Phật Anomadassī thọ ký tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão sẽ trở thành bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sāriputta là vị-Bồ-tát Tối-Thượng Thanh-văn-giác đã tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ từ thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian có khoảng cách thời gian suốt 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, trải qua 19 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian, đó là Đức-Phật Anomadassī, Đức-Phật Paduma, Đức-Phật Nārada, Đức-Phật Padumuttara, Đức-Phật Sumedha, Đức Phật Sujāta, Đức-Phật Piyadassī, Đức-Phật Atthadassī, Đức-Phật Dhammadassī, Đức-Phật Siddhattha, Đức-Phật Tissa, Đức-Phật Phussa, Đức-Phật Vipassī, Đức-Phật Sikhī, Đức-Phật Vessabhū, Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức-Phật Kassapa và Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.
Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sāriputta là vị-Bồ-tát Tối-Thượng Thanh-văn-giác đã tạo đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, để trở thành bậc Thánh Tối-Thượng Thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy, kiếp chót của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là vị Bồ-tát Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất, sinh làm con của bà Sārī (con gái của ông trưởng-giả) trong xóm nhà Upatissa gần kinh-thành Rājagaha. Bà Sārī đặt tên con là Upatissa.
Công-tử Upatissa có người bạn thân là công-tử Kolita cùng nhau đi chơi hội mà không cảm thấy vui, phát sinh động tâm về cuộc đời là khổ, nên hai người bạn bàn bạc cùng nhau xuất gia tìm con đường giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Thời ấy, trong kinh-thành Rājagaha, vị đạo-sư nổi tiếng Sañcaya là đạo trưởng phái ngoại đạo lớn có nhiều đệ-tử, công-tử Upatissa và công-tử Kolita cùng nhóm thuộc hạ đến xin xuất gia trở thành đệ-tử của vị đạo-sư Sañcaya.
Sau khi xuất gia được 2 – 3 ngày, hai vị tu-sĩ Upatissa và tu-sĩ Kolita đã học thông hiểu phần lý thuyết của vị đạo-sư Sañcaya và không còn gì để học nữa.
Hai vị tu-sĩ Upatissa và Kolita bàn luận với nhau về phần lý thuyết của vị đạo-sư Sañcaya chỉ là rỗng tuếch mà thôi, chắc chắn không phải là con đường giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Hai vị tu-sĩ nhận thức đúng đắn rằng: “Lời dạy của vị đạo-sư Sañcaya không phải là pháp dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân-hồi”.
Còn pháp thực-hành dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân-hồi thì 2 vị tu-sĩ hoàn toàn không biết, nên 2 vị tu-sĩ giao ước với nhau rằng:
“Hai chúng ta nếu người nào tìm được vị thầy chỉ dạy pháp-hành chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trước tiên, thì người ấy cho người kia biết.”
Sau khi giao ước xong, mỗi người chọn một con đường đi tìm Thầy.
Khi ấy, Đức-Phật ngự đến kinh-thành Rājagaha cùng nhóm chư Thánh thanh-văn đệ-tử vào ngày mồng một tháng giêng. Tu-sĩ Upatissa đi vào kinh-thành Rājagaha, nhìn thấy Ngài Trưởng-lão Assaji là bậc Thánh A-ra-hán còn trẻ đang đi khất thực với cử chỉ cẩn trọng trong các giác quan thanh-tịnh, tu-sĩ Upatissa phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài Trưởng-lão Assaji, nên đi theo hộ độ Ngài Trưởng-lão.
Sau khi Ngài Trưởng-lão độ vật thực xong, tu-sĩ Upatissa cung-kính đảnh lễ, chắp tay bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Ngài có cử chỉ cẩn trọng trong các giác quan thanh-tịnh, có gương mặt trong sáng thật đáng tôn kính.
– Kính bạch Ngài, Ngài xuất gia với Đức Tôn-Sư nào? Đức Tôn-Sư của Ngài là Bậc nào?
Ngài đã thực-hành theo chánh-pháp của Đức Tôn-Sư như thế nào?
Ngài Trưởng-lão Assaji đáp rằng:
– Này hiền giả! Tôi xuất gia với Đức-Phật Gotama, xuất thân từ dòng dõi Sakya. Vị Tôn-Sư của tôi là Đức-Phật Gotama. Tôi đã thực-hành theo chánh-pháp của Đức-Phật Gotama ấy.
Tu-sĩ Upatissa bạch hỏi tiếp rằng:
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, giáo-pháp của Đức-Phật Gotama là Đức Tôn-Sư của Ngài thuyết dạy như thế nào?
– Kính xin Ngài Trưởng-lão thuyết dạy cho con nghe chánh-pháp ấy.
Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết dạy rằng:
– Này hiền giả! Giáo-pháp của Đức-Phật Gotama rộng lớn mênh mông, vô cùng sâu sắc và vi-tế, tôi là vị tỳ-khưu trẻ mới xuất gia chưa hiểu biết nhiều, tôi chỉ có thể chỉ dạy tóm tắt ngắn gọn mà thôi.
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con là tu-sĩ Upatissa, kính xin Ngài thuyết-pháp chỉ dạy dù nhiều dù ít cũng tốt đối với con.
Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết bài kệ rằng:
“Ye dhammā hetuppabhavā, tesaṃ hetuṃ Tathāgato āha. Tesañca yo nirodho, evaṃ vādī mahāsamaṇo.”(1)
– Này hiền giả! Những pháp ngũ-uẩn nào là pháp khổ-đế đều sinh từ tham-ái, nhân sinh khổ-đế ấy.
Đức-Phật thuyết dạy tham-ái, và thuyết dạy Niết-bàn diệt tham-ái.
Đức-Phật Gotama bậc Đại Sa-môn thường thuyết dạy chân-lý tứ Thánh-đế như vậy.
Trong khi lắng nghe Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết bài kệ tóm tắt về chân-lý tứ Thánh-đế gồm có 4 câu, tu-sĩ Upatissa vốn là vị Bồ-tát Tối-Thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ xuất sắc bậc nhất, nên vừa nghe hai câu đầu của bài kệ, tu-sĩ Upatissa liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama ngay tại nơi ấy.
Sau khi trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, tu-sĩ Upatissa cung-kính đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Assaji, rồi xin phép trở về tìm bạn thân là tu-sĩ Kolita.
Tu-sĩ Upatissa thuyết lại bài kệ này cho tu-sĩ Kolita nghe, sau khi nghe xong, tu-sĩ Kolita liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Khi ấy, tu-sĩ Upatissa và tu-sĩ Kolita dẫn nhóm học trò 250 vị tu-sĩ của vị đạo-sư Sañcaya đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Đức-Phật cho phép xuất gia bằng cách gọi “Etha bhikkhavo!”…
Tu-sĩ Upatissa và tu-sĩ Kolita cùng nhóm học trò đều trở thành tỳ-khưu. Từ đó, tỳ-khưu Upatissa được gọi là vị Đại-Trưởng-lão Sāriputta và tỳ-khưu Kolita được gọi là vị Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.
Đức-Phật thuyết-pháp tế độ nhóm tỳ-khưu ấy, tất cả 250 vị tỳ-khưu đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, tr thành bậc Thánh A-ra-hán, chỉ trừ 2 vị Đại-Trưởng-lão Sāriputta và vị Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna chưa chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
Sau khi trở thành tỳ-khưu được 7 ngày, vị Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cùng các phép thần thông xuất sắc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Và sau khi trở thành tỳ-khưu được 15 ngày, vị Đại-Trưởng-lão Sāriputta chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán có trí-tuệ sâu sắc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Tuyên dương ngôi vị Tối-thượng thanh-văn
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi, khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự giữa chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, truyền dạy rằng:
“Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ mahāpaññānaṃ yadidaṃ Sāriputto.”
– Này chư tỳ-khưu! Sāriputta là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử bên phải có đại-trí-tuệ xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.
“Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ iddhimantānaṃ yadidaṃ Mahāmoggallāno.”
– Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn đệ-tử bên trái có các phép thần thông xuất sắc bậc nhất, trong hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.
Hai Ngài Đại-Trưởng-lão đã thành tựu được ý nguyện của mình, đúng như Đức-Phật Anomadassī quá khứ đã thọ ký.
Đối với các hàng Bồ-tát Thanh-văn-giác, dù là bậc nào cũng cần phải lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mới có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn-giác được.
Cho nên, đối với tất cả các hàng bồ-tát thanh-văn-giác đều cần phải nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mới có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn trở thành bậc Thánh-nhân trong giáo-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Nếu vị bồ-tát thanh-văn-giác nào không có cơ hội, không có duyên lành nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì chắc chắn vị bồ-tát thanh-văn-giác ấy không thể tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, không thể trở thành bậc Thánh-nhân được.
Đức-bồ-tát kiếp chót không nghe chánh-pháp
Đức-Bồ-tát không cần nghe chánh-pháp mà có khả năng tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, thì chỉ có 2 Đức-Bồ-tát kiếp chót mà thôi, đó là
*Kiếp chót của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác không có thầy chỉ dạy, tự mình thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) đã tích-luỹ từ vô số kiếp quá-khứ, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị trên toàn cõi giới chúng-sinh.
* Và chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót, mỗi Vị cũng đều không có thầy chỉ dạy, tự mình thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức-Phật Độc-Giác, bởi vì Đức-Phật Độc- Giác không thuyết-pháp chỉ dạy chúng-sinh khác chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y như Ngài đã chứng ngộ.
Đức-Phật Độc-Giác có nhiều Vị trong cùng thời-kỳ.
Tuy nhiên chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác và chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác nếu chưa phải là kiếp chót thì vẫn còn phải nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác để bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn.
Cho nên, phước-thiện nghe chánh-pháp là phước-thiện tối ư thiết yếu không chỉ đối với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, mà còn loài súc-sinh cũng có thể đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai. Ví dụ:
Như tích Maṇḍūkadevaputta(1) (Chư-thiên ếch), được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự đến bờ hồ Gaggarā thuyết-pháp tế độ dân chúng Campā. Một con ếch nhảy lên bờ hồ, nằm nghe giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn với đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật. Khi ấy, một người chăn bò đứng đằng sau, lắng nghe-pháp, tay cầm cây nhọn, vô ý cắm xuống đất đụng phải đầu con ếch đang nằm lắng nghe giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn với đức-tin trong sạch, con ếch chết ngay khi ấy.
Con ếch sau khi chết, đại-thiện-nghiệp lắng nghe giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn ấy cho quả tái-sinh kiếp sau liền hóa sinh làm vị thiên-nam Maṇḍūka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trong một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có các thiên-nữ hầu hạ.
Vị thiên-nam Maṇḍūka suy xét rằng: Ta từ đâu đến hóa-sinh làm vị thiên-nam tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên này?
Vị thiên-nam Maṇḍūka nhớ lại tiền-kiếp mình là loài ếch, sống dưới hồ Gaggarā, nhảy lên bờ nằm lắng nghe giọng phạm âm thuyết-pháp của Đức-Phật với đại-thiện- tâm có đức-tin trong sạch.
Sau khi kiếp con ếch ấy chết, nhờ đại-thiện-nghiệp nghe-pháp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam Maṇḍūka tại cõi trời này.
Thấy rõ Đức-Thế-Tôn đang còn thuyết-pháp tại gần bờ hồ Gaggarā, vị thiên-nam Maṇḍūka quyết định hiện xuống hầu đảnh lễ Đức-Phật, còn đem theo lâu đài bằng vàng cùng các vị thiên-nữ, có hào quang sáng ngời, đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn biết rõ, nhưng muốn cho các hàng thanh-văn đệ-tử thấy rõ phước-thiện nghe chánh-pháp và quả báu của phước-thiện nghe chánh-pháp, nên Đức-Phật hỏi vị chư-thiên Maṇḍūka rằng:
“Ko me vandāti padāni, iddhiyā yasasā jalaṃ.
Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā…”
– Này thiên-nam! Ngươi là ai đến đây?
Có thân hình đẹp hào quang sáng ngời,
Tỏa ra mọi hướng, có nhiều oai lực,
Các thiên-nữ xinh đẹp theo hầu hạ,
Đảnh lễ dưới bàn chân của Như-Lai.
Vị chư-thiên ếch Maṇḍūka bạch rằng:
“Maṇḍūko’ haṃ pure asiṃ, udake vārigocaro.
Tava dhammaṃ suṇantassa, avadhi vacchapālako…”
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,
Con tên là thiên-nam Măn-đu-ká,
Mới kiếp trước đây là con ếch nhỏ,
Sinh ra và sống ở tại hồ này,
Con nhảy lên đang nghe-pháp của Ngài,
Người chăn bò đứng nghe-pháp vô ý,
Cắm cây gậy đụng đầu, làm con chết.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,
Trong khoảnh khắc nghe-pháp với đức-tin,
Nơi giọng phạm âm của Đức-Thế-Tôn.
Sau khi con chết, nhờ đại-thiện-nghiệp ấy,
Cho quả hóa-sinh được làm thiên-nam.
Như Ngài nhìn thấy thân hình con đẹp,
Có hào quang sáng ngời tỏa muôn phương,
Có nhiều oai lực, hưởng mọi an-lạc,
Các thiên-nữ ngày đêm hầu hạ con.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất,
Chúng-sinh nào có duyên lành nghe-pháp,
Chúng-sinh ấy được chứng ngộ chân-lý,
Chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Được giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Khi ấy, Đức-Phật xem xét các hàng thanh-văn đệ-tử có đức-tin trong sạch, nên Đức-Phật thuyết-pháp tế độ vị thiên-nam Maṇḍūka cùng với các chúng-sinh.
Vị thiên-nam Maṇḍūka cùng với chư vị thiên-nữ, các hàng thanh-văn đệ-tử khác lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp, sau khi nghe chánh-pháp của Đức-Phật, có số đông gồm có 84.000 chúng-sinh chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Sau khi vị thiên-nam Maṇḍūka cùng với chư vị thiên-nữ trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vô cùng hoan-hỷ cung-kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rồi xin phép trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
* Tích 500 con dơi đeo trong động
Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, có 2 Ngài Trưởng-lão vừa đi kinh hành vừa tụng ôn Abhidhammapiṭaka-pāḷi: Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ lớn trong một cái động, tại nơi ấy có 500 con dơi đeo trong động ấy, mỗi ngày chúng nó lắng nghe 2 Ngài Trưởng-lão rằng:
“Kusalā dhammā (các thiện-pháp), akusalā dhammā (các bất-thiện-pháp), abyākatā dhammā (các pháp không thiện không bất-thiện), v.v…”, nhóm 500 con dơi chỉ nghe âm thanh Pāḷi mà thôi, chúng nó hoàn toàn không hiểu biết ý nghĩa gì cả.
Sau khi nhóm 500 con dơi ấy chết, đại-thiện-nghiệp nghe âm thanh Pāḷi ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm 500 vị thiên-nam trên cõi trời, hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy trên các cõi trời suốt thời gian từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.
Nhóm 500 vị thiên-nam ấy cùng chuyển kiếp (cuti: chết) từ cõi trời, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm người đều trở thành cận-sự-nam (upāsaka) trong kinh-thành Sāvatthī.
Vào ngày rằm tháng 6 âm lịch, Đức-Phật Gotama biểu diễn phép thần-thông yamakapāṭihāriya tại cây xoài gần kinh-thành Sāvatthī, nhóm 500 người cận-sự-nam (upāsaka) ấy cùng nhau đến xem Đức-Phật biểu diễn phép thần-thông yamakapāṭihāriya, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, rồi cùng dẫn nhau đến xuất gia trở thành 500 vị tỳ-khưu nơi Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.