Những Loại Tâm Tánh

Tâm là một hiện tượng tế nhị và phức tạp đến độ không thể có hai người có tâm giống y hệt nhau. Tư tưởng của con người được diễn đạt ra thành lời nói và hành động. Lời nói và hành động mà lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen và cuối cùng, thói quen lâu ngày trở thành tâm tánh. Tâm tánh là hậu quả của những “sinh-hoạt-do-tâm-hướng-dẫn” của con người và như thế tâm tánh của mỗi chúng sanh mỗi khác. Sách Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi-magga), đề cập đến sáu loại tâm tánh (carita) chánh yếu, bao gồm nhiều loại khác kém quan trọng hơn. Ðó là những tâm tánh có chiều hướng tham, sân, say mê, đức tin, trí thức và phóng dật. Vì nhiều tâm tánh khác nhau nên cũng có nhiều đề mục hành thiền (kammatthàna) khác nhau. Những đề mục hành thiền này được lược thuật trong kinh điển Pali, nhất là trong các bài giảng của Ðức Phật. Thanh Tịnh Ðạo mô tả bốn mươi đề mục như vậy. Quả thật đó là các toa thuốc để chữa trị những xáo trộn tinh thần khác nhau mà con người thừa kế từ những kiếp sống quá khứ.

Trong bộ Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, một trong năm bộ kinh Pali ghi lại những thời Pháp do Ðức Phật giảng, có hai bài (số 61 và 62) bao gồm toàn vẹn những lời dạy của Ðức Bổn Sư về thiền tập.

Trong bài kinh số 62 Ðức Phật dạy bảy đề mục hành thiền cho vị sa di trẻ tuổi Ràhula mà, theo bản chú giải, lúc ấy chỉ mười tám tuổi. Sau đây là một đoạn trích từ bài kinh ấy:

“Hãy phát triển pháp niệm tâm từ (mettà), này Ràhula, bởi vì pháp hành này sẽ diệt trừ ác ý (vyàpàda).

Hãy phát triển pháp niệm tâm bi (karunà), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng hung bạo (vihesà).

Hãy phát triển pháp niệm tâm hỷ (mudità), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng không ưa thích (arati, đây là không ưa thích hành thiền) .

Hãy phát triển pháp niệm tâm xả (upekkhà), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng thù hận (patigha).

Hãy phát triển pháp quán niệm các uế trược (asubha), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng tham dục (ràga).

Hãy phát triển pháp tri giác vô thường (anicca sannà, nhận thức đặc tướng vô thường của vạn pháp), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng ngã mạn tự ái (asmimàna).

Hãy phát triển pháp quán niệm hơi thở-ra-thở-vào (ànàpànassati), này Ràhula, vì pháp hành này nếu được phát triển và thường xuyên trau giồi sẽ đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, nhiều lợi ích trọng đại.” [15]

Ðức Phật chẳng những chỉ dẫn và khuyên nhủ người khác hành thiền, mà chính Ngài cũng thực hành thiền định như một lối an trú tâm, tịnh dưỡng tinh thần nơi đây và trong hiện tại (ditthadhamma sukhavihàri). Một lần nọ Ðức Thế Tôn dạy: “Này chư tỳ khưu, Như Lai muốn sống vắng vẻ một mình trong ba tháng. Chớ nên để ai khác đến viếng Như Lai ngoài người đem dâng vật thực.” “Dạ xin vâng, Bạch Ðức Thế Tôn.” Sau khi ba tháng trôi qua Ðức Thế Tôn dạy:

“Này chư tỳ khưu, nếu những người khác (những người thuộc tín ngưỡng khác) hỏi các con: ‘Trong thời gian Nhập Hạ, Samana Gotama (Sa Môn Cồ Ðàm) thường thực hành pháp môn nào?’ các con nên trả lời: ‘Trong thời gian Nhập Hạ Ðức Thế Tôn thường quán niệm hơi-thở-vào-thở-ra.’ Nơi đây, này chư tỳ khưu, với chánh niệm Như Lai thở vào, với chánh niệm Như Lai thở ra … Này chư tỳ khưu, người nói đúng phải nói: chú niệm vào hơi-thở-vào-thở-ra là lối sống cao thượng của bậc thánh nhân (ariya), của bậc phạm hạnh (brahma), lối sống của Như Lai (Tathàgata). [16]

Ta không cần phải cố gắng thực hành đầy đủ tất cả bốn mươi đề mục hành thiền. Ðiều quan trọng là nên chọn đề mục nào thích hợp nhất với mình. Nên tìm sự hướng dẫn của một người có nhiều kinh nghiệm hành thiền. Sách về thiền cũng có thể hữu dụng. Dầu sao, điểm trọng yếu là nên nhận định tâm tánh mình một cách thành thật, vì không vậy ắt không thể chọn đúng đề mục thích hợp với mình. Một khi đã chọn ta nên đặt vững niềm tin vào đó và gia công tinh tấn thực hành. Hành thiền là một pháp hành “tự mình làm lấy”.

Nếu ta còn mãi bận rộn tâm trí với những việc thế gian, trong việc làm hằng ngày, thì có thể không dễ gì tự cắt lìa, tách rời ra khỏi thế sự và ngồi lại yên tĩnh, đúng giờ giấc, mỗi ngày, để hành thiền một cách nghiêm chỉnh. Nhưng nếu thật sự muốn, với ý chí dũng mãnh, cũng có thể làm được. Chắc chắn là mỗi ngày chúng ta có thể dành riêng một ít, chút ít thì giờ ngắn ngủi nào cũng tốt, hoặc lúc bình minh, hoặc ngay trước khi ngủ, bất luận lúc nào mà tâm sẵn sàng lắng động, để ngồi lại tập trung tư tưởng và gom tâm an trụ.

Nếu ngày này qua ngày khác ta có thể cố gắng trau giồi tâm an trụ như vậy ắt sẽ có thể thực hành công trình này một cách tốt đẹp hơn, hữu hiệu hơn, ý chí sẽ dũng mãnh hơn, để mạnh dạn đối phó với những lo âu và những căng thẳng phiền toái của cuộc sống, và do đó có thể đạt đến trạng thái thoải mái dễ chịu hơn. Ðây là công trình đáng cho ta thực hiện. Chỉ cần phải kiên trì nhẫn nhục, bền công thực hành, vững chí cố gắng, và nếu thật sự thực lòng, ta sẽ có nhiều hy vọng thành công. Nếu có thể, công phu hành thiền phải được thực hiện đều đặn hằng ngày, vào giờ nhất định, trong một thời gian đáng kể, và không nên nóng lòng trông đợi kết quả, Chuyển biến tâm lý không diễn tiến nhanh chóng.

Tam Học

Trước khi gia công thực hành nhiệm vụ khó khăn hơn, là uốn nắn trau giồi tâm bằng thiền tập, điều chánh yếu là chúng ta nên tự khép mình vào khuôn khổ kỷ cương, đặt hành động và lời nói trong giới luật. Giới luật (sìla) trong Phật Giáo nhằm điều ngự thân và khẩu nghiệp, hay nói cách khác, giới luật nhằm thanh lọc thân và khẩu, làm cho lời nói và hành động trong sạch. Ðây là pháp tu học để trau giồi đức hạnh (sìla-sikkhà, pháp tu học về giới). Ba chi của Bát Chánh Ðạo hợp thành nhóm giới (sìla) trong Phật Giáo là: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Người quyết tâm hành thiền nghiêm trì tối thiểu năm giới căn bản được gọi là panca sìla (ngũ giới) — kiêng cữ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và dể duôi dùng chất say như rượu mạnh, ma túy v.v… vốn đầu độc tâm trí và gây nên tình trạng tâm thần buông lung phóng túng, không giác tỉnh. Trong một khóa thiền, thiền sinh phải sống hoàn toàn trong sạch như người độc thân và như vậy giới thứ ba, không tà dâm, trở thành không thông dâm.

Giới (sìla) là nền tảng vững chắc trong lối sống của người Phật tử. Ðó là căn bản của công trình trau giồi tâm trí. Người quyết tâm thực hành thiền tập, hay gom tâm an trụ, phải phát triển tâm ưa thích giới đức, vốn là yếu tố bồi dưỡng đời sống tâm linh, giúp cho tâm dễ dàng an trụ và tĩnh lặng. Người có chú nguyện thành đạt trạng thái tâm trong sạch cao thượng nhất hằng thực hành pháp thiêu đốt dục vọng, chất liệu làm cho tâm ô nhiễm. Người ấy suy tư: “Kẻ khác có thể gây tổn thương, nhưng ta không làm tổn thương ai; kẻ khác có thể sát sanh, nhưng ta không sát hại sinh vật; kẻ khác có thể lấy một vật mà không được cho đến mình, nhưng ta không thể sai lầm lấy của nào không được cho đến ta; kẻ khác có thể sống phóng túng lang chạ, nhưng ta giữ mình trong sạch; kẻ khác có thể nói giả dối, đâm thọc, thô lỗ hay nhảm nhí, nhưng ta sẽ nói những lời chân thật, đem lại hòa hợp, thuận thảo, những lời vô hại, những lời thanh nhã dịu hiền, đầy tình thương, những lời làm đẹp dạ, đáng được ghi vào lòng, đúng lúc, đúng nơi, những lời hữu ích; kẻ khác có thể tham lam, nhưng ta sẽ không tham; kẻ khác có thể để tâm cong queo xiêu vẹo, nhưng ta sẽ giữ tâm ngay thẳng. Ta sẽ tinh tấn, cao thượng, chân thật, chánh trực, an lạc thanh bình, thanh khiết, tri túc, quảng đại và luôn luôn thành thật. Ta sẽ chuyên cần nhiếp tâm chú niệm và khai triển tuệ minh sát để luôn luôn trọn vẹn hay biết chân lý và sẽ không xao xuyến vì sự vật tan biến hoặc cố bám vào sự vật.” [17] Như vậy người ấy không hành động đê hèn như những người không suy tư.

Giới luật (sìla) mà Ðức Phật ban hành không phải là những điều răn cấm tiêu cực mà rõ ràng xác định ý chí cương quyết hành thiện, sự quyết tâm có những hành động tốt đẹp — một con đường toàn hảo xây đắp bằng thiện ý, nhằm tạo an lành và hạnh phúc cho nhân loại. Những quy tắc đạo lý này nhằm tạo dựng một xã hội châu toàn bằng cách đem lại tình trạng hòa hợp, nhất trí, điều hòa, thuận thảo và sự hiểu biết lẫn nhau giữa người và người.

Giới đức trang nghiêm giúp phát triển tâm định (samàdhi). Ba chi cuối cùng của Bát Chánh Ðạo là: chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, hợp thành nhóm định, và được gọi là “đhều học về định” (samàdhi-sikkhà). Trong khi tiến bộ hành trì giới luật ngày càng tinh nghiêm, hành giả thực hành trau giồi tâm trí. Ngồi lại trong một tịnh thất, dưới một cội cây hay ngoài trời, hoặc một nơi thích hợp nào khác, hành giả gom tâm chăm chú vào đề mục hành thiền, rồi không ngừng tinh tấn gội rửa mọi bợn nhơ trong tâm và dần dần tiêu trừ năm chướng ngại tinh thần (năm pháp triền cái), định tâm vào một điểm.

Tâm định ở mức độ cao là phương tiện để thành đạt trí tuệ hay tuệ minh sát. Tuệ bao gồm chánh kiến và chánh tư duy, hai chi đầu tiên của Bát Chánh Ðạo, được gọi là “điều học về tuệ” (pannà-sikkhà). Như vậy, giới, định, tuệ, mà trong kinh sách thường gọi là tam học (tividhà-sikkhà) là ba điều học, hay ba pháp tu học. Tuy nhiên, không có điều học nào trong tam học tự nó là mục tiêu cứu cánh. Mỗi điều học là phương tiện để tiến tới mục tiêu. Chúng ta không thể thực hành riêng rẽ một điều học và bỏ quên hai điều kia. Cũng như chân máy chụp hình, đứng vững được là nhờ có đủ ba chân. Nếu một chân sụp gảy thì tất cả đều rơi. Cùng thế ấy, chúng ta không thể thực hành một điều học mà không nhờ sự hỗ trợ của hai điều kia. Các điều học ấy nâng đỡ lẫn nhau. Giới đức hay tác phong đạo đức thanh cao củng cố tâm định. Tâm định, được giới đức hỗ trợ, tạo nhiều thành quả, nhiều lợi ích và làm nền tảng để phát huy trí tuệ. Trí tuệ giúp hành giả phá tan lớp mây mờ si mê bao phủ sự vật và trực chứng thực tướng của vạn pháp, thấy đời sống đúng như thật sự đời sống là vậy, tức thấy đời sống và những gì liên quan đến đời sống luôn luôn ở trong trạng thái sanh rồi diệt (udaya-vaya, sanh-hoại). Bằng một tiến trình biến chuyển dần dần [18], bằng công trình tu tập dần dần, thực hành dần dần, hành giả thanh lọc mọi bợn nhơ, tận diệt mọi ô nhiễm, thành đạt giải thoát. Ðiều này có nghĩa là hành giả tự chứng nghiệm trạng thái chấm dứt ba căn bất thiện, tiêu trừ trọn vẹn nguồn gốc của mọi hình thức đau khổ là: tham, sân, si (lobha, dosa, moha) mà từ lâu đã xâm chiếm tâm trí con người. Hành giả loại bỏ và diệt trừ tận gốc rễ ba căn bất thiện bằng cách thực hành ba điều học: giới, định, tuệ (sìla, samàdhi, pannà).

Với sự thanh lọc toàn vẹn cuối cùng ấy hành giả tiến đạt đến mức độ được Ánh Sáng Niết Bàn soi tỏ, tình trạng vắng lặng vượt ra ngoài phạm vi của ngôn ngữ, vững vàng bất thối chuyển vượt ra ngoài mọi tư tưởng, tự do vượt ra ngoài mọi hành động, nền tảng chắc chắn và châu toàn, vinh quang rực rỡ không thể phai lạt, hạnh phúc của tâm tự tại, nhẹ nhàng thoát ra khỏi mọi ràng buộc và thành đạt trạng thái an lạc toàn hảo, sâu xa huyền diệu và thanh khiết mà không có bất cứ ai, bất luận gì, có thể làm thối chuyển, chân lý cao thượng nhất. Ðó là mức tuyệt đỉnh của cuộc sống hành thiền, là thành quả quý báu nhất của thiền tập. Do nhờ thành quả này mọi hiện tượng sanh, già, chết đều chấm dứt, không còn trở đi trở lại nữa, đời sống thánh thiện đã được trải qua đầy đủ, và tất cả những gì cần phải làm đã được thực hiện trọn vẹn, không còn gì trên thế gian làm bận tâm hành giả.

Như vậy ta thấy rằng giới, định, tuệ không phải là ba đức độ riêng rẽ, không liên quan với nhau, mà là những thành phần dính liền nhau của Bát Chánh Ðạo, cũng là con đường hành thiền, như đã được sơ lược trình bày ở phần trên.

Niệm Xứ

Giờ đây chúng ta hãy tiến dần đến phương pháp đặc thù của thiền tập, thảo luận về một sắc thái rất quan trọng của pháp hành thiền trong Phật Giáo. Ðó là pháp niệm xứ, satipatthàna, sự “thiết lập, áp đặt chú niệm vào.” “Patthàna” là một hình thức rút ngắn của chữ “upatthàna”, có nghĩa là “để gần lại” (tâm của mình), hàm ý giữ tâm hay biết, đặt tâm trên, thiết lập, củng cố, áp đặt hay khơi dậy. Thức tỉnh, làm phát khởi sự hay biết sắc bén đối tượng đến một người. Tác dụng của pháp này là khơi động, làm cho người ấy hay biết rõ ràng đối tượng và đem lại, làm khơi dậy ngũ căn (tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn), ngũ lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và tuệ lực), thất giác chi (niệm, trạch pháp, tấn, phỉ, an, định, xả), và chi chánh niệm của con đường — đó là thiết lập chú niệm.

Bài kinh đề cập đến pháp Niệm xứ (Satipatthàna Sutta, ta thường gọi là kinh Tứ niệm xứ) là một trong những bài kinh trọng yếu nhất mà Ðức Phật đã thuyết giảng. Bài kinh này được ghi chép hai lần trong Tam Tạng Kinh Ðiển [19]. Lời mở đầu bài kinh tuyên ngôn rõ ràng: Pháp niệm xứ là con đường duy nhất (ekàyano maggo) để chúng sanh tự thanh lọc, nhằm vượt qua khỏi phiền não và ta thán, để diệt trừ đau khổ và ưu phiền, để đạt đến chánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn.

Niệm xứ có bốn, là củng cố chú niệm nơi: 1) thân (kàyànupassanà, niệm thân); 2) thọ hay cảm giác (vedanà- nupassanà, niệm thọ); 3) những sinh hoạt của tâm (città-nupassanà, niệm tâm); và 4) đối tượng của tâm (dhammà-nupassanà, niệm pháp). Ðiểm quan trọng ở đây là niệm (sati), sự chú tâm hay quan sát (anupassanà).

Như đã được đề cập trên đây, hành giả thành đạt trạng thái tâm an trụ và vắng lặng nhờ thực hành phối hợp ba chi của Bát Chánh Ðạo là: chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Ba chi này cũng như ba tao nhợ hợp thành sợi thừng, chằng chịt lẫn nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Tuy nhiên, niệm được xem là tao nhợ mạnh hơn hết, bởi vì niệm có một vai trò vô cùng quan trọng trong công phu tu tập nhằm đạt đến cả hai, vắng lặng và minh sát. Niệm là một cơ năng của tâm và do đó, là một tâm sở. Nếu không có tâm sở tối trọng yếu này ta không thể nhận ra một vật — đối tượng của giác quan — và chúng ta không thể hay biết đầy đủ tác phong của chính chúng ta. Ðược gọi là chánh niệm vì một đàng nó giúp tránh xa tình trạng chú tâm sai lạc theo chiều hướng sai lầm, và ngăn cản không để tâm chăm chú vào bất thiện pháp và đàng khác, hướng dẫn tâm theo chiều hướng chân chánh, đến trạng thái trong sạch và giải thoát.

Chánh niệm tăng trưởng năng lực quan sát của chánh kiến và chánh tư duy và hỗ trợ, làm cho hai chi này trở nên sâu sắc bén nhạy. Con người hiểu biết và suy tư có trật tự nhờ chánh niệm. Bài kinh chỉ dạy rành mạch làm cách nào hành giả có thể hay biết luồng tư tưởng của mình, giác tỉnh theo dõi, ghi nhận và quan sát mỗi ý nghĩ và từng ý nghĩ của mình, tư tưởng tốt cũng như xấu, thiện hay thế nào khác. Vị hành giả chuyên cần tu tập sẽ ghi nhận rằng chính nhờ thỉnh thoảng đọc lại bài kinh Niệm Xứ làm cho ta giác tỉnh hơn, quyết tâm hơn và thận trọng chú niệm nhiều hơn. Chánh niệm là phẩm hạnh mà không có bất luận người suy tư và hiểu biết nào xem thường. Trong thời đại hổn tạp mà chúng ta đang sống, trong lúc mà rất nhiều người đang mất thăng bằng tâm trí, công trình trau giồi chú niệm quả thật vô cùng thiết yếu.

Chánh niệm không những đem lại tình trạng an trụ và tĩnh lặng mà còn giúp ta hiểu biết chân chánh và có lối sống chân chánh. Chánh niệm là yếu tố quan trọng trong tất cả những hành động của chúng ta, trần tục trong đời sống thường ngày hay những hoạt động tinh thần có tánh cách đạo đức. Giờ đây chúng ta thấy rằng hành thiền không phải đào tẩu nhiệm vụ, hay bỏ chạy, tách rời xa đời sống và trốn tránh xã hội, cũng không phải tự lưu đày ra ngoài đời sống, mà chính là một hình thức của cuộc sống lý tưởng.

Thực Hành Thiền Tập

Chỉ khi nào ngồi xuống hành thiền chúng ta mới có thể nghiêm chỉnh tự phân tách mình mà không bị thành kiến ảnh hưởng. Chừng ấy khái niệm về tự ngã hay một bản ngã sẽ tan biến. Ta chỉ thấy một luồng trôi chảy của danh và sắc, tuyệt nhiên không có một thực thể thường còn, hay bất luận gì đơn thuần hoặc một bản ngã vững bền không hoại diệt. Nhìn trên phương diện này, đời sống không có phương Ðông hay phương Tây, không có nam hay nữ, mà chỉ là một tiến trình vượt qua khỏi mọi giới hạn giai cấp, chủng tộc, màu sắc, tín ngưỡng và không gian.

Vậy, hãy cố gắng ngay thẳng, thành thật và thẳng thắn tự nhìn mình, nhìn những cảm giác (thọ) của mình và những tư tưởng (tâm) của mình một cách sáng suốt. Hãy cố gắng thấy mình như thật sự mình là vậy, chớ không phải như mình có vẻ là vậy. Ðiều này chỉ có thể thực hiện khi mà chúng ta thật sự thành thật và tin tưởng nơi ta. Theo pháp hành thiền trong Phật Giáo, mở rộng tâm trí và tìm tòi quan sát một cách thẳng thắn là điều kiện tất yếu không thể không có. Thiếu yếu tố này một hành giả sơ cơ sẽ không thể đặt nền tảng vững chắc cho những cơ cấu xây cất bên trên. Và bởi vì thấu hiểu chân lý là vấn đề hoàn toàn cá nhân của mỗi người, mỗi cá nhân phải tự mình tìm hiểu chính mình chớ không có sự chỉ dẫn hay giáo huấn nào có thể giúp hành giả, nếu chính hành giả không tự rèn luyện, không tu tập tự quán chiếu. Thiền tập quả thật là thiết yếu bởi vì nhờ hành thiền mà ta có thể mở khóa cửa, bước vào những bí ẩn của nội tâm.

Bài kinh Niệm xứ diễn tả kỹ thuật trau giồi tâm linh nhằm vượt ra ngoài phạm vi trí thức đến mức tự mình thật sự chứng nghiệm đời sống, tự mình khám phá những chứng bịnh phổ cập sâu kín của tâm con người và gia công giải phóng tâm ra khỏi mọi ràng buộc — trạng thái châu toàn tối thượng.

Giờ đây chúng ta hãy thảo luận về pháp niệm thân (kàyànupassanà), và đặc biệt phần ànàpànassati, niệm hơi-thở-vào-thở-ra. Ðây là phương pháp hành thiền rất phổ thông, được nhiều người ưa thích và thực hành khắp nơi trên thế giới, vì pháp này có thể thích hợp với nhiều người để gom tâm an trụ và lắng tâm tĩnh lặng. Bồ Tát Siddhattha Gotama xưa kia cũng áp dụng pháp này khi Ngài tận lực cố gắng chứng ngộ Ðạo Quả Vô Thượng dưới cội bồ đề. Ðức Phật cũng quả quyết khẳng định tầm quan trọng của pháp hành này. Pháp này được mô tả là làm cho hành giả an lạc, cao thượng, tinh khiết và sống hạnh phúc (santo ceva panìto ca asecanako ca sukho ca vihàro) [20]. Phải ghi nhận rằng ànàpànassati không phải là một “phương pháp tập thở” để cho cơ thể được khỏe mạnh, cũng không giống như pháp prànayàma, được dạy trong hệ thống du dà của Ấn Ðộ Giáo.

Về nơi chốn để hành thiền, ta được khuyên là nên chọn một nơi vắng vẻ, trong rừng, dưới một cội cây hay ngoài trời, hay ở một nơi thích hợp nào khác. Nếu có thể được, hãy tìm một nơi yên tĩnh, xa những cảnh huyên náo ồn ào, rầm rộ xôn xao của đời sống nhộn nhịp bận rộn. Trong phòng ngủ hoặc “phòng thờ” nếu ta may mắn được có, có thể là nơi mà ta có thể sống đơn độc, riêng biệt một mình.

Theo pháp hành đề mục này ta cần phải ở thế ngồi. Ngồi thẳng lưng, tréo hai chân nhưng không gồng cứng mình, giữ tâm chú niệm và giác tỉnh. Vì hai chân tréo khóa cứng lại hay vì sàn nhà cứng, đôi khi ta cảm nghe không được thoải mái và như vậy, tâm bị chi phối, không an trụ được. Chừng ấy ta có thể ngồi trên một cái ghế có dựa đứng thẳng. Dầu ngồi thế nào, đặc biệt trong pháp hành này, không phải như các pháp hành khác, ta phải giữ thân mình (xương sống) và đầu ngay thẳng, không nghiêng ngã bên nào. Nên ngồi cách nào cho được thoải mái, nhưng không nên dựa lưng hay nằm xuống, để tránh khỏi buồn ngủ. Hai tay có thể gát trên vế hoặc tay mặt đặt trên tay trái, cả hai đều lật ngửa lên. Mắt có thể nhắm hí hí phân nửa, hoặc nhắm kín luôn một cách tự nhiên, không có cố gắng. Hai môi ngậm lại và giữ lưỡi sát hàm trên. Tất cả những chi tiết này cho thấy rằng người hành thiền cũng cố gắng điều phục thân, và thân được điều phục sẽ giúp tâm dễ chú niệm và an trụ. Giữ thân càng bất động càng tốt. Tâm phải giác tỉnh và quán chiếu sâu sắc. Thân và tâm cần phải căng thẳng vừa phải, như dây của cây cung, và điều hòa đúng nhịp như dây của cây đờn. Pháp hành thiền quả thật là một công trình thực nghiệm. Cũng như rùa giữ kín bốn chân dưới cái mu, cùng thế ấy, người hành thiền che chỡ giữ gìn ngũ quan của mình và chế ngự dục vọng bằng chú niệm và dành tất cả năng lực để trau giồi tâm trí. Hãy cố gắng hành thiền đều đặn, nếu có thể được, mỗi ngày vào giờ nhất định, bởi vì chính những yếu tố tâm lý ấy sẽ giúp ta thành công trong công phu hành thiền.

Hơi thở vào và hơi thở ra diễn tiến một cách tự nhiên, hầu như máy móc, chúng ta biết vậy. Trong những lúc bình thường không mấy ai để ý đến hơi thở. Nhưng khi hành thiền theo pháp niệm hơi thở, thì điều chánh yếu là phải chú niệm, hay biết hơi thở. Luồng hơi mà chúng ta thở vào hay thở ra phải được ghi nhận và quan sát. Sự chú niệm này làm cho thân trở nên yên tĩnh và được chuẩn bị sẵn sàng để công phu hành thiền tiến sâu thêm, nhằm tăng trưởng năng lực của tâm định và trạng thái vắng lặng. Chúng ta hoan hỷ ghi nhận rằng các nhà tâm lý học hiện đại đã xác nhận giá trị và tầm quan trọng của công trình niệm hơi thở nhằm lắng dịu tình trạng căng thẳng của cơ thể và tâm trí. Như vậy, công phu hành thiền này đúng thật là việc làm có tánh cách thực dụng, là một phương thức trị liệu trong ý nghĩa cao cả nhất của danh từ. Pháp này không phải để phát huy kiến thức suông, mà để tự giải phóng, vượt ra khỏi mọi bợn nhơ tinh thần và đạt đến trạng thái tâm linh trong sạch, tĩnh lặng và tự tại. Trong pháp hành niệm hơi thở, điều trọng yếu nhất là luôn luôn chú tâm theo dõi hơi thở. Phải nhiếp tâm chú niệm (sati) và chăm chú quán chiếu (anupassanà) trong tất cả bốn loại niệm xứ. Khi ngồi lại hành thiền, hãy an nghĩ hẳn. Hãy tự tách rời ra khỏi thế giới căng thẳng. Trong khi thở vào ba hơi thở đầu, hãy tưởng tượng rằng từ bên ngoài ta đem vào tất cả những gì tốt đẹp, cao cả và trong sạch của vũ trụ. Khi thở ra ba hơi đầu, hãy tưởng tượng là ta đang vứt ra tất cả những tư tưởng “đầu độc”, ô nhiễm, tất cả những gì xấu xa, thấp hèn và nhơ bẩn bên trong chúng ta. Ðó là phương cách chuẩn bị thân tâm để tiến vào thiền tập.

Nghệ Sĩ Trên Sân Khấu

Bây giờ chúng ta hãy bắt đầu thực hành pháp niệm hơi-thở-vào-thở-ra (ànàpànassati). Hãy để cho hơi thở hô hấp tự nhiên, không có sự cố gắng nào. Cứ an tĩnh thở. Không nên cố gắng kiểm soát hơi thở. Chỉ để luồng hơi thong thả tuôn ra, rồi thong thả trôi vào, dưới ánh sáng của tâm hoàn toàn giác tỉnh.

Hành giả thở vào và thở ra với tâm luôn luôn theo dõi ghi nhận và hay biết, nhiếp tâm chú niệm vào hơi thở chớ không phải vào chính mình. Mục đích duy nhất của hành giả là tập trung sự chăm chú vào hơi thở rồi cột tâm vào đó, ngoài ra không hay biết tư tưởng nào khác. Nếu hành giả còn lưu tâm đến những gì xuất hiện mập mờ “bên rìa”, ngoài “phạm vi chăm chú” của mình ắt khó mà gom tâm, và chừng đó tâm sẽ phóng đi. Ðối với quý vị còn sơ cơ, nên ghi nhận “vào”, “ra”, mỗi khi thở vào hay thở ra, tập cho quen chú tâm theo dõi và ghi nhận. Nếu còn thấy khó kềm được sự chú tâm hay biết, khi thở vào đếm “một” (đếm và ghi nhận thầm); khi thở ra đếm thầm “hai” khi hơi thở chấm dứt. Ðếm như vậy không quá mười, và không ít hơn năm, bởi vì tâm sẽ có chiều hướng duyên theo con số đếm mà lìa bỏ hơi thở. Khi tâm đã tập trung được dễ dàng hành giả sẽ không đếm nữa mà chỉ theo dõi hơi thở.

Khi niệm hơi-thở-vào-hơi-thở-ra, phải đặt sự chú tâm vào điểm mà hành giả nghe luồng hơi thở chạm thân, đầu lổ mũi hay ở chót môi trên. Hãy ghi nhận luồng hơi trôi vào thế nào, và tuôn ra như thế nào ngang qua điểm ấy, mà không theo dõi luôn đến lồng phổi, hay ra ngoài không khí. Không nên kềm giữ hay ngưng hơi thở. Phải để cho hệ thống hô hấp diễn tiến thật tự nhiên, không có cố gắng nào để kiểm soát. Hãy tập trung sự chú tâm vào điểm “ra-vào” ở mũi và hoàn toàn hay biết, ghi nhận mỗi hơi thở vào, thở ra.

Ðôi khi hơi thở có thể trở nên nhẹ nhàng, tế nhị đến độ hành giả cảm thấy khó có thể “bắt” được, hoặc còn cảm thọ được. Nhưng điều này không có nghĩa là tâm hành giả trở thành trống không. Ðiều ấy không thể xảy ra, bởi vì ta không thể nghĩ rằng có cái tâm rỗng không, một cái tâm trong đó không có tư tưởng nào.

Khi không còn cảm nghe hơi thở nữa thì ta hay biết như vậy. Ðã có sự hay biết, tức tâm không phải rỗng không. Sau đó hành giả sẽ cảm giác, hay biết hơi thở trở lại. Mỗi khi tâm phóng đi, duyên vào những tư tưởng khác, hãy hay biết sự phóng tâm ấy nhưng không để mình bị cảm xúc, cũng không suy tư về những tư tưởng này. Không nên phê bình, chỉ trích, đánh giá, hay ngợi khen những tư tưởng ấy mà chỉ đem sự chú tâm của mình trở về nhịp thở tự nhiên. Hành giả cũng có thể bị những tư tưởng bợn nhơ hay bất thiện tràn ngập. Ðiều này có thể xảy ra. Chính trong khi hành thiền ta hiểu biết tâm mình hoạt động như thế nào. Hãy giác tỉnh và hay biết cả hai, những tư tưởng cao thượng và những ý nghĩ thấp hèn, những gì tốt đẹp và những gì xấu xa, thiện và bất thiện. Không nên ngã mạn tự tôn với những tư tưởng tốt và thất vọng ngã lòng với những ý nghĩ xấu. Tư tưởng đến rồi đi, không khác nào các nghệ sĩ trên sân khấu. Khi nghe tiếng động hãy ghi nhận, có “tiếng động”, rồi đem tâm trở về hơi thở. Cùng thế ấy, khi có mùi, có vị, có xúc chạm, đau, sướng v.v… hãy theo dõi quan sát những tư tưởng ấy (nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức) một cách khách quan, tự tại và không dính mắc. Giác tỉnh chú niệm có nghĩa là quan sát bất cứ gì xảy đến bên trong ta và trong tác phong của chúng ta, chớ không xét đoán xem nó tốt hay xấu. Chỉ nhìn, quan sát với sự hay biết suông. Nhìn một cách khách quan mà không vấn vương dính mắc với những tư tưởng ấy. Ðó rõ ràng là tận dụng sự tập trung chú niệm vào bất cứ điều gì mình đang làm hay đang chứng nghiệm.

Hành giả có thể cũng nhận thấy trong tâm những hình ảnh do trí nhớ hay trí tưởng tượng tạo nên như ánh sáng, màu sắc v.v… Không nên nghĩ rằng đó là một tiến bộ tinh thần mà sẽ bị chán nản về sau. Ngược lại, đó là những chướng ngại sẽ làm chậm trể bước tiến trong công phu hành thiền của chúng ta. Hãy giác tỉnh, hay biết những hình ảnh ấy mà không vọng móng theo, không dính mắc vào đó, chỉ đem sự chú tâm trở về hơi thở. Ta cần phải nhẫn nhục và cố gắng nhiều để đoạn lìa những sản phẩm phụ ấy, tập trung nỗ lực vào nhiệm vụ gom tâm an trụ. Mức độ tận lực cố gắng và kiên trì nhẫn nhục nhằm đem lại thanh tịnh và toàn hảo bằng pháp hành thiền vắng lặng (samatha) và thiền minh sát (vipassanà) mạnh mẽ và phi thường như thế nào? Chỉ có người thật sự hành thiền mới có thể thấu hiểu.

Ðối với một hành giả còn là phàm nhân (tức chưa đắc thánh Quả) thì việc có những tư tưởng bất thiện hay sai lầm phát sanh là tự nhiên. “Tham ái thấm nhuần tâm không thuần thục như nước thấm dột vào căn nhà không khéo lợp.” [21]

Khát vọng của con người gây nhiều xáo trộn cho con người. Khi bị trở ngại vì một lý do gì tham ái này trở thành tức giận, tâm sân. Vì lẽ ấy ta nên cố gắng trau giồi và phát triển những tư tưởng tốt đẹp và trong sạch, những khả năng vô cùng tận ngủ ngầm trong bẩm tánh con người. Muốn được vậy ta cần phải cố gắng tu tập pháp hành thiền vắng lặng (samàdhi-sikkhà). Chính nhờ tu tập dần dần mà ta có thể kiểm soát và điều phục tâm (cittam vasam vattati) thay vì trở thành nô lệ, bị nó chi phối (cittassa vasena vattati) [22]. Nhờ dày công rèn luyện, trau giồi tâm như vậy ta có thể vượt thoát ra khỏi ảnh hưởng của nhục dục ngũ trần. Tiến bộ vật chất của thế gian như lợi lộc chẳng hạn, tùy thuộc một phần lớn vào sự cố gắng của ta. Vậy thì ta càng phải cố gắng nhiều hơn nữa để rèn luyện tâm tánh và nhờ đó phát triển những gì quý báu và cao cả nhất bên trong chúng ta. Và bởi vì công trình rèn luyện tâm tánh đòi hỏi phải vận dụng mọi cố gắng, mỗi người cho chính mình, chúng ta hãy tận lực gia công ngay từ giờ phút này. “Chớ để ngày tháng trôi đi như bóng mát của đám mây, bay qua mà không để lại dấu vết gì cho ta nhớ.”

Lời Khuyên Hành Giả

Trong kinh điển Phật Giáo có rất nhiều đoạn đề cập đến pháp hành niệm hơi-thở-vào-thở-ra (ànàpànassati), và không ai ngạc nhiên khi thấy Ðức Thế Tôn khuyên dạy sa di Ràhula (La Hầu La) hành pháp này với đầy đủ chi tiết.

Giờ đây chúng ta hãy trở lại bài kinh số 62 của bộ Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, tựa đề Mahà Ràhulavàda Sutta:

“Này Ràhula, vị đệ tử rút ẩn dật vào rừng, dưới một cội cây, hoặc đơn độc một nơi vắng vẻ, ngồi tréo chân, thân người ngay thẳng và, giác tỉnh, nhiếp tâm chú niệm.

“Chú niệm, vị ấy thở vô, chú niệm, vị ấy thở ra; khi thở vô một hơi dài, vị ấy hay biết ‘ta thở vô một hơi dài’; khi thở ra một hơi dài, vị ấy hay biết ‘ta thở ra một hơi dài’; khi thở vô một hơi ngắn, vị ấy hay biết ‘ta thở vô một hơi ngắn’; khi thở ra một hơi ngắn, vị ấy hay biết ‘ta thở ra một hơi ngắn’; ‘hay biết trọn vẹn tiến trình hơi thở [23] ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘hay biết trọn vẹn tiến trình hơi thở, ta sẽ thở ra, vị ấy tự rèn luyện như thế.’

“‘Làm lắng dịu tiến trình hơi thở, ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘làm lắng dịu trọn vẹn tiến trình hơi thở, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Chứng nghiệm tâm phỉ, ta sẽ thở vô,’ vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘chứng nghiệm tâm phỉ, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Chứng nghiệm tâm lạc, ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘chứng nghiệm tâm lạc, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Chứng nghiệm sinh hoạt tâm linh (thọ và tưởng), ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘chứng nghiệm những cấu thành của tâm (hành), ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Làm lắng dịu thọ và tưởng, ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘làm lắng dịu hành, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Chứng nghiệm tâm an trụ ở mức cao độ (jhànic, đắc thiền), ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘chứng nghiệm tâm an trụ ở mức cao độ, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Tâm vô cùng phấn khởi (do thiền vắng lặng hay thiền minh sát, samatha hay vipassanà), ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘tâm vô cùng phấn khởi, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Tâm an trụ hoàn toàn củng cố (vào hơi thở), ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘tâm an trụ hoàn toàn củng cố, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Giải thoát tâm (ra khỏi những chướng ngại tinh thần, nivàranas, những pháp triền cái) ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘giải thoát tâm, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Quán niệm lý vô thường (trong thân, thọ, tưởng, hành, thức), ta sẽ thở vô’ vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘quán niệm lý vô thường, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Quán niệm hạnh buông xả, ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘quán niệm hạnh buông xả, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“‘Quán niệm trạng thái chấm dứt, ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘quán niệm trạng thái chấm dứt, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế. “‘Quán niệm trạng thái dứt bỏ, ta sẽ thở vô’, vị ấy tự rèn luyện như thế; ‘quán niệm trạng thái dứt bỏ, ta sẽ thở ra’, vị ấy tự rèn luyện như thế.

“Pháp hành niệm hơi-thở-vô-thở-ra, này Ràhula, nếu được trau giồi như vậy và thường xuyên thực hành, sẽ đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, nhiều lợi ích trọng đại. Khi pháp quán niệm hơi-thở-vào-thở-ra được trau giồi như vậy và thường xuyên thực hành, này Ràhula, thì chí đến hơi thở-vào-thở-ra cuối cùng cũng được hay biết rõ ràng lúc nó chấm dứt, không phải không hay biết.” [24]

Có người cho rằng pháp hành thiền này là thấp kém, vô ích và không đưa đến đâu. Chúng ta cứ để họ tự nhiên, muốn nói gì thì nói. Hãy để cho các triết gia luận triết, để cho các nhà hùng biện trổ tài hùng biện. Hãy tiến bước trên con đường của ta và thực hành pháp quán niệm của ta. Chí đến Ðức Thế Tôn xưa kia cũng không tránh khỏi bị người đương thời chỉ trích vì Ngài xa lánh cuộc sống “tranh chấp và xung đột thấp hèn của đám đông cuồng loạn”, như ta thấy trong bộ Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, những lời phỉ báng thậm tệ mà đạo sĩ du phương Nigrodha vung vải vào Ðức Phật: “Tình trạng sáng suốt của Samana Gotama (Sa Môn Cồ Ðàm) bị thói quen sống ẩn dật của mình làm suy tàn. Ngài không ở nhà để dẫn dắt hàng tứ chúng. Ngài không sẵn sàng để thảo luận. Ngài chỉ bận lo những việc phụ thuộc bên ngoài. Cũng như con bò chột mắt, cố tránh né sự va chạm và đi vòng quanh ngoài rìa, Samana Gotama cũng cùng thế ấy (sống ngoài rìa cuộc đời và tránh né va chạm).” [25]

Ðúng ra thì không phải lúc nào Ðức Phật cũng tìm nơi vắng vẻ để ẩn sống một mình. Ngài đi bộ trên những con đường cái lớn và các nẻo nhỏ, cùng khắp xứ Ấn Ðộ, bao trùm tất cả trong vừng hào quang từ ái và bi mẫn của Ngài. Người ta đến với Ngài, lắng tai nghe, và xin về nương tựa nơi Ngài. Ðược rọi sáng và dẫn dắt trên con đường dẫn đến an lạc và giác ngộ, họ bước theo dấu chân Ngài, con đường rộng mở cho tất cả mọi người. Thỉnh thoảng Ngài sống đơn độc trong một thời gian.

Năm Pháp Triền Cái

Khi gia công dần dần trau giồi chú niệm, tâm của hành giả sẽ an trụ vào hơi thở. Chừng đó hành giả ghi nhận rằng chỉ có hơi thở và cái tâm hay biết hơi thở, ngoài ra không có gì ở phía sau hơi thở và tâm hết — không có một tự ngã hay một thực thể đơn thuần nào nguyên vẹn, thường còn, không biến đổi hay một cái gì tương tợ. Hành giả và hơi thở không phải là hai mà chỉ là một tiến trình, một hiện tượng tái sanh và hoại diệt suông, giống như những lượn sóng trên biển cả. Trong ý nghĩa cao siêu nhất, chỉ có sự hành thiền mà không có người hành thiền. Nếu hành giả tiến đến mức hiểu biết trạng thái tâm định của mình như vậy thì mức độ định tâm của hành giả đã rất cao, và chừng ấy tâm phỉ lạc, vắng lặng, tự tại cũng phát sanh, và đó là một loại chứng nghiệm phi thường mà hành giả chưa bao giờ cảm thọ.

Chứng nghiệm thích thú này có thể chỉ tồn tại trong chốc lát, rồi tâm của hành giả lại rời đề mục. Tâm phóng đi và có thể hành giả thấy khó mà tập trung trở lại. Hành giả có thể cảm nghe uể oải hoặc buồn ngủ, bồn chồn xao xuyến, và chán nản dững dưng không còn muốn hành thiền nữa. Không hề gì, đó là sinh hoạt tự nhiên của tâm. Giờ đây hành giả đã hiểu biết tâm mình vận chuyển như thế nào, xuyên qua kinh nghiệm bản thân, chớ không phải qua sách vở hay nghe nói lại.

Hành giả phải tăng cường lòng nhiệt thành, tập trung nỗ lực, can đảm xông tới và cố gắng tự quên mình. Ngày kia hành giả có thể thành đạt những chứng nghiệm của các tầng thiền (jhàna) bằng cách loại trừ những chướng ngại tinh thần. Trạng thái tâm định, lối hành thiền vắng lặng (samatha-bhàvanà) này, thiết yếu để tiến đến chánh kiến, hiểu biết thâm sâu và tuệ minh sát (vipassanà), thành tựu trạng thái tinh thần hoàn toàn lành mạnh — Niết Bàn.

Hành giả sẽ gặp nhiều chướng ngại, nhưng đặc biệt có năm, ngăn trở bước tiến đến trạng thái tâm an trụ và con đường giải thoát. Năm ấy được gọi là nìvaranàni [26], năm pháp triền cái, vì nó hoàn toàn đóng chặt, cắt đứt và ngăn chận. Nó đóng khoá cánh cửa giải thoát. Năm ấy là gì? Tham dục, ác ý, dã dượi hôn trầm, phóng dật lo âu và hoài nghi.

Một cái tâm mà bị những năng lực tệ hại như vậy làm trở ngại ắt không thể thành công an trụ vào đề mục nào có bản chất thiện. Không có chánh tinh tấn ắt sẽ không thể khắc phục năm chướng ngại tinh thần này. Nhiệm vụ của chánh tinh tấn có bốn: ngăn ngừa, dứt bỏ, khai triển và duy trì. Chánh tinh tấn là sự cố gắng (a) ngăn ngừa những tư tưởng bất thiện chưa phát sanh, không để cho nó phát sanh trong tâm; (b) loại trừ những tư tưởng bất thiện đã phát sanh; (c) khai triển những tư tưởng thiện chưa phát sanh và (d) củng cố và bảo trì những tư tưởng thiện đã phát sanh. [27]

Bốn nỗ lực chân chánh trên là điều kiện tất yếu không thể không có, để định tâm.

Chánh tinh tấn sinh hoạt chung và cùng lúc với hai chi kia của nhóm định, tức: chánh niệm và chánh định. Chánh tinh tấn loại trừ những tư tưởng bất thiện, vốn ngăn trở tâm an trụ vắng lặng và khai triển và bảo trì những yếu tố tâm (tâm sở) thiện giúp trau giồi tâm định. Khi lòng nhiệt thành của hành giả đình trệ và suy giảm đó là lúc phải thu hết can đảm, đẩy mạnh nỗ lực và khắc phục lòng dã dượi hôn trầm. Tình trạng chán nản lười biếng của tâm và các yếu tố tâm (tâm vương và các tâm sở) là kẻ thù nguy hiểm của người hành thiền, vì khi tâm hôn trầm thì dã dượi ắt phát sanh, dẫn đến dững dưng chai đá.

(xem tiếp phần 10.b)

Chú thích:

[1] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 26/I. 21.

[2] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, iii, 100.

[3] Alexandra David Neel, With Mystics and Magicians (London: Penguin, 1940), mô tả những diễn biến về Tây Tạng huyền bí rất hứng thú.

[4] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 103.

[5] Phật Giáo phủ nhận một linh hồn trường cửu, một tự ngã bất diệt, hay một thực thể vĩnh tồn, bởi vì không có gì, dầu hữu tri hữu giác hay vô giác vô tri, mà tồn tại thường còn, ổn định, vững bền, không biến chuyển. Tất cả mọi sự vật đều phải đổi thay, không tồn tại giống nhau trong hai khoảnh khắc kế tiếp.

[6] International Scala, November 1971.

[7] Time, Volume 100, No. 17, October 1972.

[8] Edward Arambawela, “Meditation Cures Pressure,” Sunday Observer (Ceylon), May 30, 1982.

[9] Dhammapada, Pháp Cú Kinh, câu 243.

[10] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 239.

[11] Xem Phụ bản III.

[12] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 44/I. 301.

[13] Các tầng Thiền (jhàna) này được mô tả với nhiều chi tiết hơn trong quyển “The Buddha’s Ancient Path” (xuất bản lần thứ năm, 1987), BPS, cùng một tác giả.

[14] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, I, 61.

[15] Xem phần sau, dưới tiểu tựa “Lời Khuyên Hành Giả”

[16] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, 326.

[17] Xem Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 8.

[18] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, iv, 200; Udàna 54.

[19] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, số 10; Dìgha Nikàya, số 22.

[20] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 326.

[21] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 13.

[22] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 32/I 214

[23] Sabba-kàya. Ðúng theo nghĩa từng chữ là, “toàn thân (của hơi thở)”. Theo sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, “kàya” ở đây không có nghĩa là cơ thể vật chất này, mà là toàn thể khối hơi thở-vô và thở-ra.

[24] Tepi viditvà nirujjhanti no aviditàti. Chú Giải của bài kinh.

[25] Dialogues of the Buddha, Part III, page 35.

[26] Về chi tiết xin đọc Phụ bản IV.

[27] Xem Phụ bản III.

-ooOoo-

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app