Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện – Chương Xiib – Người Phụ Nữ Trong Văn Học Phật Giáo (tiếp Theo)

-12.b-

NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC PHẬT GIÁO (tiếp theo)

Người Con Gái Chăn Ðà La và Vấn Ðề Giai Cấp

Ðức Phật Siddhattha Gotama đang ngự trong thành Sàvatthi (Sravasti, Xá Vệ), Ấn Ðộ, tại Kỳ Viên Tịnh Xá của Trưởng Giả Anàthapindika, Cấp Cô Ðộc. Vào lúc ấy Ðại Ðức Ànanda, vị đệ tử trung kiên và là thị giả chuyên cần nhất của Ðức Bổn Sư cũng ngụ tại ngôi tự viện ấy. Ngày nọ, như thường lệ, Trưởng Lão Ànanda y phục chỉnh tề, tay ôm bình bát, chân thong dong đều đặn từng bước, và mắt nhìn xuống, đi vào thành Sàvatthi. Khi đã thọ vừa đủ vật thực để đỡ dạ Ngài tìm ẩn vào một nơi yên tĩnh để độ ngọ. Thọ thực xong Ngài tìm nước và thấy một cái giếng bên đàng. Vào lúc ấy có một thiếu nữ thuộc giai cấp Chandàla (chăn đà la) tên Prakrti, cũng đến giếng ấy gánh nước. Ðại Ðức Ànanda đến gần đứng lại, mắt nhìn xuống đất, hai tay ôm bát. Và câu chuyện đối thoại xảy diễn như sau:

Prakrti: Bạch Sư, cần dùng chi?

Ðại Ðức: Xin cho tôi chút nước để giải khát.

— Tôi là người thuộc giai cấp Chandàla (chăn đà la); không ai dùng nước của chúng tôi.

— Tôi chỉ muốn xin chút nước uống để giải khát. Nước làm đở khát cho tất cả mọi người, dầu người thuộc về giai cấp, đẳng cấp hay chủng tộc nào.

— Sư không biết rằng trong xứ có hai giai cấp: cấp cao và cấp thấp sao? Tôi thuộc về giai cấp thấp.

— Vấn đề giai cấp là cái gì rõ ràng không quan trọng đối với tôi. Tôi không mảy may bận tâm đến việc này. Tôi chỉ cần chút nước để giải khát.

— Làm thế nào tôi, một gái hạng chăn đà la, có thể dâng nước đến Sư? Chí đến cái bóng của chúng tôi, người ở giai cấp cao còn không dám giẫm chân lên. Họ tránh chúng tôi, hất hủi chúng tôi, và nếu bất chợt thấy chúng tôi thì họ mau mau đi rửa mặt với nước thơm và than vản: “Bất hạnh thay! hôm nay chúng ta lại gặp một người thuộc hạng cùng đinh.” Họ khinh rẻ chúng tôi và có những thái độ khinh khi như vậy.

— Tôi không biết giai cấp cao hay giai cấp thấp, cô cũng là một con người như tôi. Tất cả mọi người đều là người như nhau. Tất cả đều cùng chung thuộc về chủng tộc loài người. Tất cả đều có một đầu, hai mắt, hai tai, một miệng và một mũi v.v… Máu chảy trong huyết quản của mọi người đều có màu đỏ như nhau, không phải đen. Có gì khác biệt? Có gì để có thể phân chia?

— Ðúng vậy, bạch Sư, về phần vật chất thì không có gì khác biệt. Tuy nhiên, người ở giai cấp và địa vị cao sang, họ đã tạo thiện nghiệp và vun bồi phước báo nên tái sanh vào gia đình cao cấp. Chúng tôi đã tạo nghiệp bất thiện nên sanh vào giai cấp cùng đinh, làm người khốn khổ cơ hàn, cặn bã của xã hội, phải chịu số phận bị khinh khi ruồng rẫy.

— Dầu sao, Ðức Bổn Sư, bậc Toàn Giác Tối Thượng, Thầy tôi, có ban truyền bức thông điệp cao quý như sau:

“Là cùng đinh không phải do sanh trưởng,
Không phải do sanh trưởng là bà la môn,
Do hành động ta trở thành cùng đinh,
Do hành động ta trở thành bà la môn.”
(Sutta-nipàta. 135).

Tôi không quan tâm đến cái được gọi là giai cấp chút nào, xin cho tôi chút nước vì hiện tôi đang cần giải khát.

Prakrti nói không ra lời, miệng ngậm cứng như câm. Người thiếu nữ sợ hải, cúi xuống nghiêng mình tới trước, run rẩy trịnh trọng dâng nưóc đến Ngài Ànanda, sớt ra từ trong cái chậu, và tim nàng bắt đầu đập, càng lúc càng mau. Nhà Sư hớp nước với lòng biết ơn nồng hậu trong khi Prakrti ngạc nhiên đứng nhìn. Rồi Ðại Ðức Ànanda trở về tịnh xá.

Nhưng Prakrti thì ngẩn người, nhớ lại giọng nói dịu hiền của nhà sư, nàng đắm đuối say mê phẩm cách cao đẹp và tướng mạo oai nghiêm của vị đạo sĩ đến độ ngây ngất sững sờ, vô cùng kinh ngạc.”‘Xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước’ Tiếng nói êm dịu nhẹ nhàng dễ cảm; ông ấy nói chuyện với ta hiền hòa thanh nhã làm sao! Ôi, con người đẹp đẽ lạ thường, phong độ cao quý vô cùng! Tại sao ông ấy lại đến với người con gái chăn đà la? Có phải ta là người con gái duy nhất trong thành Sàvatthi này không? Có phải đây là cái giếng duy nhất trong thành này không? Y phục của ta không hiển nhiên cho thấy ta là hạng chăn đà la hay sao? Cách ăn mặc và trang sức của ta không nói lên giai cấp ta hay sao? Người lạ mặt kỳ diệu khác thường ấy có thể là ai? Từ đâu ông ta đến đây? Rồi ông sẽ đi đâu? ờ, mà ông ấy sẽ còn trở lại xin nước uống nữa chăng?” Nàng tiếp tục ngẩn ngơ mơ mộng một cách buồn thảm.

Tâm nàng mãi vơ vẩn đăm chiêu với những ý nghĩ trên trong khi thơ thẩn từng bước trên đường về nhà.

Ðến nhà, nàng đặt bầu nước xuống bỏ qua một bên, rồi vội vã đi tìm mẹ, một bà phù thủy có nhiều bùa phép và van xin mẹ làm bùa chú bỏ cho ông sư.

Bà mẹ: Có gì làm phật ý con, cái gì làm cho con đau khổ, nhà sư ấy là ai?

Prakrti: ‘Xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước’ — Mẹ ơi, trước đây con chưa từng nghe một giọng nói dịu hiền thanh nhã như vậy.

— Người mà xin con nước chắc phải thuộc giai cấp của chúng ta.

— Dạ không đâu, đó là một thanh niên đẹp trai tươi tắn lạ thường, đầu cạo trọc, mình đắp y vàng, tay ôm bình bát, rõ thật là thanh nhã trang nghiêm.

— Con nói gì bậy bạ vậy. Làm thế nào một người đầu cạo trọc lại có thể đẹp trai, tươi tắn? Con biết không, người ta cạo đầu là để làm cho không còn vẻ đẹp hay duyên dáng gì nữa?

— Con không biết điều đó, thưa mẹ, người ấy dễ thương, duyên dáng làm sao. Ông ta là hiện thân của lòng từ mẫn và khiêm tốn, của phẩm cách thanh tao và trang nhã.

— Ông ấy có phải là người thuộc giai cấp của chúng ta không?

— Dạ phải, ông nói con cũng thuộc giai cấp của ông.

— Ðó là giai cấp nào vậy con?

— Giai cấp loài người.

— Con có phỉnh lừa ông ta và không nói rõ giai cấp của mình không?

— Con nói với ông con là hạng chăn đà la, nhưng ông ta không chịu tin con. Ông cứ xin nước hoài, và tuyên bố rằng người ta là bà la môn hay cùng đinh do hành động của mình chớ không phải vì sanh trưởng trong một gia đình nào. Rồi ông nói thêm về tự do và phẩm cách con người. Từ bấy lâu nay con lầm lạc ngỡ rằng mình là “kẻ có tội” phải chịu khốn khổ bần cùng, nay nhờ ông con được biết rằng mình cũng thuộc xã hội loài người, và cũng được un đúc từ cái khuôn nhân loại. Ông ta cho con ánh sáng, ông là ánh sáng của con.

‘Xin cho tôi chút nước, xin cho tôi chút nước.’ Ôi, giọng nói êm dịu hiền hoà làm sao!

— Này Prakrti con, người ta được sanh vào giai cấp ăn trên ngồi trước vì trong quá khứ họ đã tạo nghiệp tốt. Còn chúng mình thì sanh vào giai cấp chăn đà la, hạng cùng đinh, cũng do hậu quả của những nghiệp chẳng lành mà mình đã gieo trong quá khứ.

— Không phải vậy đâu thưa mẹ, không phải tất cả đều do nghiệp báo. Chính xã hội loài người đã sắp xếp, đóng dấu, dán nhãn lên, rồi gọi chúng ta là cùng đinh, chính con người tạo sự phân chia giả tạo ấy. Không sao đâu, con muốn biết chàng thanh niên ấy là ai, tên họ và làm nghề gì.

— Theo cách con mô tả, này con, mẹ tin rằng ông ấy là đệ tử của Ðức Phật Gotama (Cồ Ðàm), ông là một người thuộc dòng Sakya (Thích Ca). Mẹ nghe rằng tên ông ta là Ànanda. Ông là một tỳ khưu, một tu sĩ, người đã từ bỏ thế gian cùng với những lạc thú và tiện nghi trần tục.

— Này mẹ yêu dấu, con van xin mẹ, con không thể sống mà không có người ấy. Con phải có ông ta. Xin mẹ hãy dùng tất cả bùa chú và phù phép, hãy tận dụng mọi quyền năng thần thông của mẹ, và đưa Ànanda về con. Nếu không được vậy, con sẽ nhịn đói đến chết, và mẹ sẽ mất đứa con duy nhất.

— Này con yêu dấu, con có biết không rằng Vua xứ Kosala (Câu Tát La) của chúng ta là một thí chủ nhiệt thành của Ðức Phật Gotama? Nếu hay được rằng con say mê và khao khát muốn được Ànanda, ắt vua sẽ tiêu diệt toàn thể cộng đồng Chandàla (chăn đà la). Con có muốn vua làm điều ấy không?

— Thưa mẹ, con van xin, mẹ hãy đọc lên câu thần chú, và ông ấy sẽ đến. Nếu không có ông, con sẽ không thể sống nữa.

— Này Prakrti con, Ðức Phật, đấng Toàn Thiện, đã diệt trừ mọi dục vọng và ô nhiễm. Ngài là bậc Tôn Sư tối thượng. Bùa phép của Ngài cao cường hơn tất cả những người khác. Thần chú của Ngài trội hơn bất cứ ai. Tuy nhiên, mẹ sẽ tận lực cố gắng cho con, đứa con yêu quý nhất đời của mẹ, chớ nên kêu gào than khóc nữa, và hãy đi ăn đi.

Ðể đáp lại lời van xin khẩn thiết của người con gái duy nhất, bà mẹ nhúm một bếp lửa với phân bò khô ngoài sân, ngồi lại một bên với 108 cành hoa arka và bắt đầu đọc thần chú. Và trong khi ấy bà luôn luôn ném hoa, hết cái này đến cái khác, vào ngọn lửa, mỗi lần ném một cành hoa thì miệng đọc thần chú.

Trưởng Lão Ànanda không thể cưỡng lại năng lực, sức quyến rũ mãnh liệt, của bùa phép. Ngài rời bỏ tịnh thất của tu viện, quên hẳn lối sống mà mình đã chọn, và thẳng tiến đến nhà của người thiếu nữ Chandàla (chăn đà la). Bà mẹ trông thấy vị đạo sĩ tiến đến gần nhà, bảo con gái dọn sẵn một chỗ ngồi. Vừa lúc Prakrti sắp xếp xong thì nhà sư vô nhà và ngồi xuống trên chỗ đã dọn sẵn. Ngài lưu ý đến những nụ cười quyến rũ của Prakrti và thuận chiều hướng về những cám dỗ của bà mẹ. Ngày đã về chiều. Vầng thái dương dần dần lặn chìm xuống dưới chân trời phương Tây và bầu không khí im lìm lặng lẽ, trang trọng bao trùm khắp nơi. Nhà sư cảm nghe ngột ngạt, lạc lối và lúng túng. Ngài liền nghĩ đến Ðức Phật, ngưỡng nguyện trong lòng: “Ngưỡng mong Ðức Bổn Sư Từ Mẫn và Trí Tuệ mở lòng trắc ẩn cứu con ra khỏi hiểm họa này.”

Lúc bấy giờ Ðức Phật Toàn Tri, với nhãn quan của một vị Phật, nhìn thấy tình thế nguy ngập của người đệ tử trung thành, và với lòng bi mẫn vô lượng vô biên, Ngài đọc chú Buddhamantra, những câu có ý nghĩa như sau:

“Nếu có một biển hồ trong suốt, không một đớm nhỏ bợn nhơ, hoàn toàn im lặng, và người vào đó được châu toàn, tất cả hiểm họa, mọi nổi kinh sợ và run rẩy đều biến tan, thì hồ đó là Niết Bàn mà chư thiên và tất cả hành giả và các bậc Thánh Nhân, đều sùng kính. Do oai lực của chân lý các lời này, ước nguyện mọi điều lành đến với tỳ khưu Ànanda.”

Câu chú hoàn toàn khắc phục bùa phép của bà phù thủy, và Ngài Ànanda được cứu thoát khỏi tai họa khủng khiếp, quyết định mau mau trở về tịnh thất. Prakrti rất đau lòng xót dạ và thất vọng một cách chua cay, nhưng không từ bỏ nỗi lòng đối với nhà sư. Sáng hôm sau nàng sửa soạn, ăn mặc tươm tất với những đồ trang sức lộng lẫy nhất của mình và chờ sẵn trên con đường mà thường ngày Trưởng Lão Ànanda phải trải qua để vào thành Sàvatthi trì bình. Và trong khi Ngài lặng lẻ tiến hành buổi đi bát thì Prakrti bước liền theo chân, từ nhà này đến nhà kia, dân chúng lấy làm ngạc nhiên nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ này.

Ngài Ànanda hoàn toàn lúng túng, bươn bả quày bước trở về tịnh thất, luôn luôn có Prakrti theo sau, và thuật lại đầu đuôi câu chuyện với Ðức Bổn Sư.

Lúc ấy Prakrti đứng trước cổng chùa, Ðấng Ðại Bi cho vời nàng vào. Với cặp mắt nhìn xuống nàng đi vào, đảnh lễ Ðức Thế Tôn và chấp tay ngồi lại một bên.

Rồi Ðấng Ðại Bi nhỏ nhẹ hỏi cô gái Chandala (chăn đà la): “Cô muốn làm gì với Ðại Ðức Ànanda?”.

Một cách giản dị và ngây thơ, Prakrti bộc lộ tất cả những khát vọng mà nàng ấp ủ sâu kín trong lòng. Ðức Tôn Sư bảo: “Này Prakrti, con hãy về nhà xin phép cha mẹ trước đi.”

Nàng vội vã đi nhanh về nhà rồi quày quả trở lại với sự đồng ý của cha mẹ. Một lần nữa Ðức Phật mở lời:

Ðức Phật: Này Prakrti, có rất nhiều thanh niên trong thành Sàvatthi. Tại sao con chỉ thương có mình Ànanda là một thầy tỳ khưu, người đã từ bỏ nếp sống tại gia?

Prakrti: Con ưa thích và thương yêu ông ấy với tất cả tấm lòng. Ông ấy đem ánh sáng lại cho người con gái đã mãi sống trong đêm tối. Chính ông dạy con rằng con là một con người, không phải nô lệ, và như ai nấy, con cũng có thể hưởng quyền làm người. Ông là ánh sáng cho mắt con, là niềm hy vọng cho tất cả những ước mơ của con, là dòng suối của đời con. Con muốn ông. Con không thể sống mà không có ông.

— Như vậy, nếu muốn được ông ấy, con phải làm những gì Như Lai bảo con làm.

— Ðể có thể được Ànanda, kính bạch Ngài, con sẽ làm tất cả những gì Ngài muốn con làm.

— Nếu con cạo trọc đầu và khoác lên mình tấm y vàng như Ànanda, con sẽ được ông ấy.

— Chắc chắn con sẽ làm y như lời Ngài bảo. Bạch Ngài, con đi gắp về nhà và sẽ trở lại liền, đầu cạo trọc và đắp y vàng.

Prakrti đi nhanh về nhà, và giải thích đầu đuôi cho mẹ. Nghe vậy bà mẹ nổi cơn giận dữ.

— Này con yêu dấu, con điên rồi sao? Con có còn tỉnh táo không, hay đã mất trí rồi?

— Này mẹ, xin mẹ vui lòng cạo đầu cho con, nếu không con sẽ tự quyên sinh.

— Con là con gái ngu. Tóc là trang điểm tốt nhất của người đàn bà. Cạo tóc đi con sẽ xấu xí, khó coi. Trong toàn thể khu thành Sàvatthi này không có người con gái nào dễ thương và duyên dáng như con. Này con yêu dấu của mẹ, hãy nhẫn nại, mẹ sẽ tìm cho con một người chồng xứng đáng.

— Con không cần ai khác, chỉ muốn Ànanda của con. Ðối với con, ông ấy đẹp đẽ sáng ngời, ông ấy duyên dáng dễ thương, có giọng nói nhỏ nhẹ dịu hiền và phong độ thanh tao nhã nhặn, dễ mến làm sao. Ông ấy là trọn cuộc sống của con, là kho tàng bảo vật, là tất cả trong đời con.

— Thôi, hãy đi ăn đi, đừng để chết đói bây giờ.

— Này mẹ, con sẽ nhịn ăn đến chừng nào mẹ cạo đầu cho con.

Sợ con chết đói, bà mẹ liền cạo đầu cho con.

— Bây giờ con giống y như một sư cô. Con sẽ bị mấy ông đạo sĩ và thầy của họ, Ðức Phật Gotama, lường gạt. Họ có bùa phép cao cường kỳ diệu để quyến dụ những người như con. (Chính lòng từ bi vô lượng vô biên của Ðức Phật đã cảm hóa và làm cho người ta về với Ngài, chớ không có sự cám dỗ khuyến dụ hay gian manh xảo quyệt lường gạt nào.)

— Không hề gì đâu mẹ, dầu ra sao thì ra, nếu có được Ànanda của con, là con bằng lòng vui vẻ lắm rồi. Con không cần gì khác. Giờ đây con đi Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên.

— Muốn làm gì thì làm; con sẽ ăn năn hối tiếc vì sự điên rồ trầm trọng này. Cạo đầu xong, Prakrti vội vã trở lại chùa, đảnh lễ Ðức Phật và ngồi lại một bên. Lúc ấy cũng có nhiều vị sư, kể cả Ngài Ànanda, đã hội về hầu Phật.

Prakrti: — Bạch hóa Ðức Thế Tôn, con đã làm đúng theo lời Ngài bảo. Như đã hứa, xin Ngài cho con Ànanda.

Ðức Phật: — Trước khi được Ànanda, con phải trả lời những câu hỏi của Như Lai.

— Xin vâng, con sẽ giải đáp những câu hỏi của Ngài.

— Con yêu thương Ànanda lắm. Vậy cái gì của nhà sư ấy đã làm cho con đắm đuối say mê.

— Toàn thân ông ấy, các bộ phận và tất cả những gì trong thân thể ông ấy đều rất vừa lòng con. Chính cái nhìn của ông là giọt thuốc nhỏ vào, làm cho mắt con sáng tỏ. Giọng nói của ông làm cho con đắm đuối say mê, ông là tất cả cho con.

— Này Prakrti con, tất cả những gì con thấy và tất cả những gì làm con mê hồn là bề ngoài của lớp da. Sắc đẹp chỉ mỏng manh như lớp da, nông cạn và phù du tạm bợ. Thân thể chúng ta không phải làm bằng vàng, bằng ngọc, bằng hột xoàn hay một loại kim cương nào khác. Trong thân này có: tóc, móng, răng, da, thịt, gân, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất nhờn, nước miếng, nước mũi, nước tiểu, phẩn. Phía sau bức hình đẹp đẻ, cái sắc đẹp bề ngoài ấy, là một cơ thể đầy thương tích, không có chi ổn định vững bền và thường còn. Thành trì này được tạo dựng bằng xương, đắp thịt và máu bên ngoài, trong đó tích trử tuổi già, bịnh tật và chết chóc, kiêu hãnh ngã mạn, và phỉ báng kẻ khác . Nếu, vì một lý do nào, những gì ở bên trong được phơi bày ra ngoài, như một cái gối bị lộn ngược, chắc chắn cần phải có một người cầm roi đứng đó để rượt đuổi bầy quạ và chó, đến đó cả đoàn cả lũ rất đông. Khát vọng say mê là do lòng ham muốn ích kỷ.

“Trìu mến sanh sầu muộn,
Trìu mến sanh lo sợ,
Người đã dập tắt hoàn toàn lòng trìu mến,
Không còn sầu muộn, còn gì lo sợ?”
–( Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 213)

Từ ngày bắt đầu thương Ànanda, con đã chịu trăm phần đau khổ, mất ăn, mất ngủ, than vắn thở dài, nỉ non khóc kể, rên rỉ bi ai — những điều ấy làm cho con vô cùng sầu muộn. Giờ đây, hãy suy tư sáng suốt, nghĩ lại xem cơ thể của Ànanda có phải là cái gì đáng được trìu mến bám níu không? Có phải là cái gì đáng được ta hân hoan ôm giữ không? Là cái gì đáng được khát khao ham muốn một cách tuyệt vọng không? Tất cả mọi sự vật là vậy, khi ta vừa bám vào thì nó đã hư hoại, suy tàn và phân tán. Tất cả những vật được cấu tạo là như thế, trong khi ta thèm khát ham muốn thì nó đã mục thúi và phai tàn.

— Kính bạch Ðức Thế Tôn, những lời của Ngài, xác đáng và đúng chân lý, đem lại cho con nhiều an ủi. Mọi việc đã sáng tỏ. Kính xin Ngài cho con xuất gia.

— Ðược, này Prakrti, Giáo Hội của Như Lai rộng mở cho tất cả, không phân biệt giai cấp, màu da, bộ lạc, chủng tộc hay nam nữ. Giáo Hội của Như Lai tựa hồ như biển cả mênh mông. Dường như nước trong các dòng sông Gangà, Yamunà, Sindu, Aciravati, đều tuôn chảy vào đại dương và mất đi lai lịch của nó, cùng thế ấy người từ những giai cấp và bộ lạc khác nhau, từ các nẻo đường khác nhau trong đời sống, đều gia nhập vào Giáo Hội của Như Lai, và rồi ý niệm về giai cấp, đẳng cấp, bộ lạc và những phân biệt khác đều phai mờ và tan biến. Trong đại dương, này Prakrti, chỉ có một vị, và đó là vị mặn của muối. Trong Giáo Hội của Như Lai cũng dường thế ấy, chỉ có một vị, và đó là vị Giải Thoát.

Ehi tvam bhikkhuni, cara brahma cariyam
Hãy đến đây, này tỳ khưu ni, sống đời thánh thiện.

Ðức Thế Tôn gọi nàng vào như thế ấy, và Prakrti trở thành hội viên của Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.

Rồi Ðấng Ðại Từ Bi thuyết giảng cho nàng khía cạnh đơn giản của Giáo Pháp bằng những lời lẽ dễ hiểu. Nàng đặt niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo, Tri-ratna: Phật, Pháp, Tăng (Buddha, Dhamma và Sangha). Sau đó Ðức Bổn Sư giải thích cho nàng Tứ Diệu Ðế — bốn chân lý vĩnh cửu về sự đau khổ hay bất toại nguyện, về nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt đau khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ, và Ðấng Toàn Giác ban cho nàng món quà Giải Thoát, nâng cao con người, từ bùn lầy suy thoái và điêu tàn đến tình trạng an lạc thanh bình, giác ngộ và Niết Bàn.

Phương cách trình bày rõ ràng dễ hiểu của Ðức Bổn Sư thấm nhuần, ăn sâu vào tận đáy lòng của thiếu nữ và đổi hẳn cái nhìn toàn diện của nàng. Nàng khấu đầu đảnh lễ dưới chân Ðấng Toàn Giác Tối Thượng và xin sám hối về những lỗi lầm của người con gái si mê và không được dạy dỗ.

Sự xuất gia của người con gái Chandàla (chăn đà la) làm cho Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) xứ Kosala (Câu Tát La) vô cùng bối rối và các thân hào nhân sĩ trong thành Sàvatthi (Xá Vệ) xôn xao nổi dậy. Họ không thể bỏ qua chuyện một người trong gia đình Chandàla (Chăn-đà-la) mà được xuất gia, gia nhập vào Giáo Hội Thiêng Liêng của Ðức Phật. Không thể dung tha, họ kéo nhau đến chùa để hội thảo và tranh luận về vấn đề tối trọng yếu này, một vấn đề vi phạm đến thanh danh và uy tín của họ, nhưng Ðức Phật thì rõ ràng thản nhiên. Ngài luôn luôn phủ nhận hệ thống phân chia giai cấp một cách không thể lầm lẫn. Ngài là vị giáo chủ duy nhất đã cố gắng pha trộn chung trong tinh thần khoan dung đại độ và thuận thảo điều hoà những người mà trước kia đã bị ruồng bỏ vì tình trạng ngu đần của sự phân chia giai cấp.

Ðức Thế Tôn nhẫn nại lắng nghe những lời phiền trách của họ, rồi bắt đầu thuật lại câu chuyện quá khứ của Prakrti:

‘Vào thủa xưa, ở Ấn Ðộ có một làng Chandàla (chăn đà la) bên cạnh sông Gangà (Hằng). Vị trưởng làng tên là Trishanku. Ông này có người con trai đẹp đẽ lạ thường tên Sardulakarna, lão thông thâm sâu ba bộ kinh Veda (Phệ Ðà) và những ngành học vấn khác. Người cha rất ước muốn cho con mình cưới một cô gái xinh đẹp và minh mẫn. Biết trong làng có một thiếu nữ đặc biệt dễ mến, tên Prakrti, con người bà la môn tên Pushkarasari, ông đến bàn thảo vấn đề với người cha cô ấy. Ông bà la môn nổi giận rầy la thậm tệ người cha của chàng thanh niên và từ chối lời cầu hôn.

“Trishanku nhẫn nại giải thích vấn đề như sau: ‘Thưa Ông, tất cả mọi người, dầu ở đâu, nghèo hay giàu, có học hay vô học thức, xấu xí hay xinh đẹp, dầu đen hay dầu trắng, tất cả đều cùng chung thuộc về một xã hội loài người, chung thuộc về một chủng tộc nhân loại. Giai cấp và đẳng cấp là những phân chia do con người giả tạo.’

“Lời giải thích hùng biện ấy hoàn toàn thuyết phục người bà la môn. Ông đồng ý gả con, Prakrti, cho Sardula-karna, con ông Trishanku.”

Và Ðức Phật nói tiếp:

“Prakrti, vị tỳ khưu ni trước mặt chúng ta đây, là con gái người bà la môn, trước kia cũng có tên Prakrti. Sardulakarna là tỳ khưu Ànanda ngày nay, và chính Như Lai là Trishanku, viên trưởng làng, Tù Trưởng Chăn Ðà La.

Vua Pasenadi cùng đoàn tùy tùng chăm chỉ lắng nghe câu chuyện quá khứ, lấy làm kinh ngạc, không nói được một lời, cùng nhau đảnh lễ Ðức Phật và chư Tăng rồi lặng lẽ lui gót trở về.

Mắt Người Trinh Nữ – Subhà Gặp Tên Du Ðãng

Ðã tạo được nhiều phước báu trong quá khứ, vào thời của Ðức Phật Siddhattha Gotama, Bậc Tôn Sư Toàn Giác Tối Thượng, nàng Subhà tái sanh vào gia đình của một vị bà la môn khả kính tại Ràjagaha (Vương Xá, ngày nay là Rajgir, Ấn Ðộ). Nàng có sắc đẹp tuyệt trần, trong toàn thể thân nàng chỗ nào cũng dễ mến, vì lẽ ấy có tên là Subhà. Khi Ðức Bổn Sư ngự tại Ràjagaha cô đặt niềm tin (saddhà) vững chắc nơi Ngài và trở thành một nữ thiện tín. Về sau cô phát tâm lo sợ bản chất đáng kinh hoàng của vòng luân hồi (samsàra), vòng quanh những kiếp sinh tồn triền miên tiếp diễn, và nhận thức rằng thú vui trần tục là dây trói buộc vào vòng nô lệ, một loại hạnh phúc tạm bợ nhất thời, có ít hứng vị. Tình trạng an toàn và tự do nằm trong sự buông bỏ khước từ. Vì thế cô xin xuất gia với Sư Bà Mahà Pajàpati Gotami [1]. Cô Subhà tinh tấn chuyên cần. Hành thiền vắng lặng (samàdhi) và tận lực gia công hành thiền minh sát (vi- passanà) cô chứng đắc tầng thánh thứ ba (anàgàmi, bất lai), không còn bao giờ trở lại Dục Giới sau khi chết.

Ngày kia, Tỳ Khưu Ni Subhà vào vườn xoài của Jìvaka để ngơi nghỉ vào buổi trưa. Cùng lúc ấy có tên du đãng nọ ở thành Ràjagaha, trong lứa tuổi thanh xuân đầy tham dục, thấy ni cô vào rừng thì đâm ra say đắm sắc đẹp diễm kiều của cô. Tên du đãng đứng chận ngang đường không cho đi tới. Ni cô Subhà cố làm cho anh ta hiểu rằng cô là người xuất gia, đã khước từ thế gian, và cảnh cáo anh về những tai hại và nguy cơ của dục lạc, nhưng vô hiệu quả. Lời khuyên của ni cô đã lọt vào lỗ tai của người điếc.

Cuộc đàm thoại sau đây được ghi lại bằng những vần thơ thanh nhã tiếng Pali, trong bộ Therìgàthà, Trưởng Lão Ni Kệ.

  1. Tỳ khưu ni Subhà đang vào khu vườn xoài xinh đẹp. Một tên du đãng chận ngang giữa đàng. Sư cô nói với nó như sau:
  2. “Lỗi gì, tội gì, bần ni đã xúc phạm đến ông mà ông chận đường? Này ông bạn, tôi là một ni cô, đã xuất gia mà chạm đến người nam là phạm giới.
  3. “Phật Giáo đối với tôi thật vô cùng quý báu và tôi rất mến chuộng. Giới tu tập nào mà Ðức Bổn Sư đã ban hành (cho tỳ khưu ni), tôi nghiêm túc thọ trì. Không mảy may ô nhiễm, tôi hoàn toàn trong sạch. Tại sao ông lại chận đường tôi?
  4. “Tâm của ông đầy những tư tưởng tham dục; tôi thì tâm thanh ý tịnh. Quả tim của ông bị những khát vọng đê hèn khuấy động, tôi không còn dục vọng và dầu đi đâu cũng không ham muốn gì cho cái thân xác phàm tục này. Tại sao ông mãi đứng đó chận đường tôi?”

Tên du đãng trả lời:

5.”Sư cô đang còn son trẻ, sắc đẹp của sư cô trong trẻo, thân hình đẹp đẽ diễm kiều. Gia nhập Giáo Hội (sống đời thánh thiện) thì có lợi ích gì; hãy lột bỏ đi bộ y vàng. Ðến đây, chúng ta hãy thọ hưởng lạc thú trong khu rừng đầy bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui của nhục dục.

  1. “Xem kìa, hương thơm ngào ngạt của ngàn hoa đang phảng phất trong gió. Hãy thưởng ngoạn mùa xuân đang tung nở, hớn hở trong niềm vui. Hãy đến đây, thọ hưởng lạc thú trong khu rừng đầy bông hoa đang đua nở, hãy tìm thú vui trong nhục dục.
  2. “Những ngọn cây đầy bông hoa nghiêng ngả, lã lơi uốn mình trước gió, hình như đang ca hát để đón mừng chúng ta. Nhưng sư cô thì thui thủi vào rừng một mình, làm sao tìm được hạnh phúc trong đó?
  3. “Vào trong khu rừng hoang dại, nơi mà thú dữ hằng lui tới, nơi bị khuấy động và luôn luôn phải run sợ trước những thớt voi đi tìm mồi, bốc lên mùi rừng rú dã man, hôi thúi nồng nặc, nơi vắng bóng người và đầy kinh sợ hải hùng [2], sư cô muốn vào trong ấy một mình, không ai tháp tùng hay sao?

9.”Ôi, này người thiếu nữ đẹp đẽ tuyệt trần! Như pho tượng đúc bằng vàng ròng lộng lẫy sáng chói, như tiên nữ nhảy múa hát ca trong một hoa viên trên cảnh trời, trong bộ y phục làm bằng tơ lụa của Benares cô sẽ đẹp đẽ xinh tươi.

  1. “Ôi, thiếu nữ với cặp mắt mơ mộng đẹp như tiên! Tôi sẽ hàng phục dưới quyền uy của cô nếu chúng ta có thể chung sống và cùng nhau trải qua cuộc đời trong khu rừng hoang dại này và thọ hưởng dục lạc. Cùng khắp thế gian không có ai dịu hiền và dễ mến như cô. (Ðối với tôi cô còn quý hơn là mạng sống của tôi).
  2. “Nếu cô lưu ý đến những lời của tôi (từ bỏ và lánh xa đời sống độc thân của cô), cùng nhau sống đời tại gia cư sĩ và hưởng thụ nhục dục ngũ trần. Những kiều nữ thướt tha dễ mến sống trong những tòa nhà đẹp đẽ sẽ chăm sóc và cung phụng cô về mọi nhu cầu.
  3. “Hãy mặc những y phục may bằng hàng lụa ở Benares. Hãy trang điểm với những tràng hoa, và ướp tẩm nước thơm hương bay ngào ngạt. Tôi sẽ thân tặng cô nhiều đồ trang sức đủ loại, với những hột kim cương lóng lánh sáng ngời.

13 “Cô sẽ nằm trải mình trên một cái giưòng ấm cúng tiện nghi và sang trọng, có mùi thơm của gỗ trầm phảng phất, và bao phủ trong một tấm trải giường mới mịn bằng lông trừu êm ấm và gối đầu trên những cái gối dồn với lông thiên nga mềm mại, màn trướng mới mẻ tinh anh.

  1. “Dường như hoa sen xinh đẹp mà nở tung trong một ao đầm hoang dại (và lặng lẽ tàn tạ, không ai màng muốn), cùng thế ấy, cô là một sư cô thanh khiết; thân hình trong trắng, trinh bạch và giữ vẹn tiết tháo, cô sẽ già nua và suy nhược rồi tàn tạ hoại diệt với tuổi già.”

Sư cô Subhà hỏi:

  1. “Nhìn vào phần nào trong cơ thể phù du yếu ớt đang suy tàn này, ông thấy thích thú? Có gì mà ông xem là dễ mến trong cái thân nhơ bẩn ngạt mùi hôi thúi này?”

Tên du đãng trả lời:

  1. “Mắt cô giống như mắt của những con hưu rụt rè e sợ; nó tựa như cặp mắt xinh đẹp của bà tiên nữ sống nơi thâm sơn cùng cốc. Nhìn vào đó lòng tôi tê tái tràn đầy khát vọng không thể kềm chế.
  2. “Gương mặt sáng ngời của cô chói lọi xinh tươi như một pho tượng vàng rực rỡ. Mắt cô lóng lánh như những tai sen màu đỏ. Nhìn vào lòng tôi rung cảm không thể kềm chế.

18.”Với lông nheo dài của cô! Với cặp mắt trong trẻo và lóng lánh sáng ngời của cô! Dầu cách xa ngàn dậm tôi vẫn chỉ mơ cặp mắt chói dịu ấy. Ôi, người có cặp mắt xinh đẹp như các vì tiên nữ trong câu chuyện thần thoại! Trong thế gian này không có chi mà tôi yêu quý bằng đôi mắt ngọc của cô.”

Sư cô Subhà trả lời:

19.”Ông chận đường một người con gái của Ðức Phật. Ước vọng của ông cũng điên rồ và vô ích như dấn bước trên con đường nguy hại. Lòng khao khát của ông muốn được tôi cũng dại khờ và vô nghĩa như muốn nhảy vọt lên đỉnh núi Meru, hay mong muốn mặt trăng là món đồ chơi của con người. (Là một ước muốn không bao giờ được thỏa mãn).

  1. “Không nơi nào trên thế gian này có bất luận cái chi (dầu vô tri vô giác hay hữu giác hữu tri) mà có thể gợi lòng tham dục của tôi. Tôi không biết tham dục là gì. Lòng tham dục ấy, tôi đã phá tan từ gốc rễ bằng cách vững chắc tiến hành trên Con Ðường Cao Thượng.
  2. “Như vật gì mình đã vứt bỏ trong đống lửa đang phừng cháy, như chai thuốc độc đã bị hủy diệt, dường thế ấy ngọn lửa tham dục của tôi đã bị dập tắt vĩnh viễn. Tôi không biết (thấy) tham dục là gì.

22.”Nếu có thể được, hãy đi cám dỗ người đàn bà nào khác mà chưa từng có đủ sáng suốt để trông thấy ngũ uẩn [3], hoặc người chưa từng liên hệ với Ðức Phật. Nơi đây ông chỉ khuyấy rầy người tu nữ — một sư cô đã chứng ngộ Tứ Diệu Ðế. [4]

23.”Trước những lời khiển trách và tán dương, trong đau khổ và hạnh phúc, tôi luôn luôn giữ chánh niệm. Như vậy, không lúc nào tâm tôi bám níu hay thèm khát điều chi. Tất cả các pháp hữu vi, hiện hữu do duyên sinh, đều giả tạm. Tôi đã hoàn toàn thông suốt điều này.

  1. “Tôi là đệ tử của Ðức Phật, người đã vượt thoát ra khỏi mọi thúc dục ô nhiễm, đã tận diệt mọi ái dục bẩn thỉu đê hèn. Lái chiếc xe Bát Chánh Ðạo, tôi thẳng tiến (đến Niết Bàn). Những mũi tên của tham dục đã được nhổ ra. Tôi tìm những cảnh quạnh hiu cô tịch, đơn độc và thanh khiết để thích thú sống một mình (an hưởng thú vui của rừng núi).
  2. “Ôi, ta đã thấy những đồ chơi hình giả, tay chân sơn phết với màu mè sực sỡ và những thằng hình bằng gỗ để làm trò chơi múa rối, được nối ráp và khéo léo cột với nhau bằng chỉ và, có thể thong thả nhảy múa theo mọi chiều hướng.
  3. “Nhưng một khi gỗ, chỉ và trục quây đều được tháo gỡ hay nới lỏng và bỏ tung toé món ở đây món ở kia, thì còn đâu là đồ chơi hình giả, đâu là thằng hình múa rối. Có nơi nào trong đó mà ông có thể chú tâm đến?
  4. “Cơ thể này của ta cũng dường như thằng hình gỗ đồ chơi. Nó không còn nữa khi các bộ phận vật lý và những phụ tùng của nó không còn. Ngoài những bộ phận và phụ thuộc không còn người sống nữa. Ông sẽ chú tâm vào đâu (phần nào)?
  5. “Hãy nhìn bức hình vẻ một thiếu nữ trên tường, với cái nhìn sai lạc ông sẽ thấy đó là một người sống. Sự nhận thấy ấy là một ảo ảnh. [5]
  6. “Này ông, con người thiển trí! con người đui mù. Ông cố bám vào thân này như vật gì thường còn và thuộc về của ông chăng, trong khi nó vốn chỉ là bọt bèo và bong bóng? Tấm thân phù du tạm bợ này tựa hồ như trò chơi của nhà ảo thuật, như một cội cây bằng vàng mà ông thấy trong mộng, một pho tượng bằng bạc mà nhà ảo thuật khéo léo trình bày giữa đám đông, ông có luyến ái nó không?
  7. “Mắt này chỉ là một hòn bi nhỏ nằm trên một nạng cây — một cái bong bóng đầy nước mắt và tiết ra chất nhờn, một sự pha trộn (những màu trắng, đen và xanh v.v…) đó là tất cả những gì tạo nên hình dáng của mắt.”
  8. Sư cô Subhà không còn luyến ái bất cứ gì; cô không luyến ái cặp mắt. Do đó, trong một cảnh tượng rất cảm động, sư cô thình lình hồn nhiên móc trồng mắt ra đưa cho tên du đãng và nói: “Ðây là con mắt đó (con mắt mà ông đắm đuối say mê). Hãy lấy đi.”
  9. Tức khắc, lòng tham dục của tên du đãng biến tan. Xin sám hối với sư cô, chàng ta nói: “Ôi, này sư cô, bậc thánh thiện và vô nhiễm! Ngưỡng nguyện sư cô được an lành! Ngưỡng nguyện mắt sư cô được hồi phục! Tôi không bao giờ còn dám tái phạm tội ác ghê tởm như vậy nữa.
  10. “Cũng dường như tôi đi vào một ngọn lửa đang cháy đỏ. Cũng giống như tôi đang ôm một con rắn độc. Phá khuấy một người hiền lành thánh thiện như sư cô thì ích lợi gì? Cúi xin sư cô khoan dung tha lỗi cho tôi.
  11. Ðược thoát ra khỏi tay tên du đãng, sư cô Subhà về hầu Phật, bậc Toàn Giác Tối Thượng. Nơi đây, ngưỡng nhìn lên dung nhan lộng lẩy của Ðức Bổn Sư nhãn quan của sư cô liền được hồi phục trong tất cả tình trạng rực rỡ vinh quang của nó.

Khi nhãn quan trở lại như xưa sư cô vô cùng hoan hỷ, và Ðức Phật thuyết giảng về những pháp để thành đạt tầng thánh cao nhất. Bà đè nén niềm hoan hỷ thích thú trong lòng, phát triển thiền minh sát và chứng ngộ Ðạo Quả A La Hán, tầng thứ tư và cũng là tầng cuối cùng trong tứ thánh, bằng cách trọn vẹn nắm vững Giáo Pháp, thông suốt đầy đủ ý nghĩa trong tất cả chi tiết.

Về sau, thọ hưởng hạnh phúc của đạo quả Niết Bàn, và suy tư về tầng thánh mà mình đã chứng ngộ, bà tuyên bố cuộc đàm thọai với tên du đãng qua những vần thơ được đề cập đến trên đây.

Kisàgotami – Chỉ Một Nhúm Hột Cải [6]

Tích chuyện Bà Kisàgotami là một trong những chuyện cảm động nhất trong kinh điển được ghi nhận. Bà sanh trưởng trong một gia đình nghèo tại thành Sàvatthi (Xá Vệ). Bà thuộc dòng Gotama, và do đó là họ hàng với Ðức Phật Gotama. Vì có thân hình mỏng manh yếu ớt nên người ta gọi bà là Kisà (có nghĩa là ốm gầy) Gotami. Khi đến tuổi trưởng thành bà được gã cho người con trai của một thương gia, và đúng lúc, hạ sanh một trai. Than ôi, khi bé lớn khôn vừa đến tuổi bặp bẹ biết nói và biết chơi thì chết, làm cho mẹ vô cùng sầu thảm. Vì tình thương con vô bờ bến, đứa con duy nhất, bà không thể tin rằng con bà đã thở hơi thở cuối cùng, ôm con vào lòng chạy đôn chạy đáo tìm thuốc cứu mạng. Trong toàn thể vùng Sàvatthi không vị lương y nào có thể cứu sống một người chết.

Vì quá sầu muộn bà như người mất trí, bôn ba chạy từ nhà này sang nhà khác khóc nức nở, van kêu: “Cúi xin quý ông quý bà rộng lòng cho tôi thuốc để cứu mạng con!” Tuy nhiên, dân chúng không thể thuyết phục bà rằng đứa bé đã chết. Nỗi khổ đau của bà quá sâu đậm để có thể nhận định đúng mức lời họ. Sau cùng có một vị trưởng lão sáng suốt thấu hiểu tâm trạng đáng thương của bà mẹ đang khóc sướt mướt, khuyên bà nên đến gặp Ðức Phật Tối Thượng. Ðức Bổn Sư Ðại Từ Ðại Bi, vào lúc bấy giờ đang ngự tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên) của Trưởng Giả Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc), tại Sàvatthi.

Bà lật đật tuôn chạy đến tịnh xá, đặt đứa con chết dưới chân Ðức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài và thuật lại câu chuyện rất thương tâm có thể làm mềm dịu quả tim chai cứng nhất.

Ðấng Ðại Bi nhìn bà với cặp mắt dịu hiền và nhỏ nhẹ nói: “Này bà chị thân mến, có một món thuốc thần hiệu chắc chắn chữa được bịnh, Như Lai sẽ hàn gắn vết thương lòng của bà. Chỉ cần tìm cho Như Lai một nhúm hột cải xin từ bất cứ nhà nào trong thành này.” Bà Gotami nghe những lời an ủi ấy thì lòng mừng vô hạn.

“Nhưng nên ghi nhận, này Gotami,” Ðức Bổn Sư nói tiếp, “rằng phải xin hột cải ấy từ một nhà nào mà chưa từng bao giờ có người chết.”

Tuy nhiên, vì quá đổi vui mừng bà Gotami không thấu hiểu ý nghĩa lời nói của đấng Toàn Giác. Với ước vọng cứu được đứa con yêu dấu, bà tức khắc vội vã chạy tìm hột cải. Tất cả mọi người trong thành đều tận tình thương hại bà và rất sẵn sàng cho hột cải mà bà hết lòng mong tìm. Nhưng than ôi, bà không thể tìm một nhà nào mà màra, thần chết, chưa hề đến viếng.

Trời đã về chiều, mặt trời lặng lẻ, nhẹ nhàng lặn chìm trong vùng trời ở phương Tây, đàn chim vội vàng bay về ổ, và Bà Gotami cuối cùng nhận thức tánh cách phổ cập của hiện tượng chết. Chân lý phủ phàng rọi sáng cho bà như một ánh chớp, và bà thông hiểu rằng tất cả những gì yêu quý mến thương nhất trên đời đều vô thường. Tất cả mọi sum hợp đều chấm dứt trong chia ly và đời sống suy tàn, biến tan vào cõi chết. Do đó bà đi ra ngoại ô thành, đặt con trong một bãi tha ma rồi về tịnh xá, vừa than:

“Ðây không phải là luật lệ của xóm làng, không phải luật của thành phố,
Không phải là luật chỉ để áp dụng riêng cho gia đình này hay gia đình khác;
Mà cho toàn thể thế gian — hơn thế nữa, cho tất cả chư thiên trên cảnh trời.
Ðây là định luật: tất cả đều vô thường.”
[7]

“Này Gotami, bà có tìm ra hột cải không?” Ðức Thế Tôn hỏi.

“Bạch Ðức Thế Tôn, con ra đi, bế trong lòng
Ðứa con càng lúc càng lạnh dần, đi từng nhà để hỏi xin —
Từ nơi rừng rậm này đến thành phố —
‘Cúi xin ông bà ban ơn ban phước,
Cho tôi chút hột cải’, và mọi người ai có cũng đều cho,
Vì tất cả người nghèo đều thương hại người nghèo;
Nhưng khi con hỏi, nơi đây, tại nhà bạn,
Ðã từng có người chết không —
Chồng, vợ, hay con, hay người làm công? họ trả lời:
‘Này bà chị! Bà hỏi gì? Người chết
Thì có thật nhiều, người sống chỉ một ít!’
Rồi trả lại hột cải với lời cảm tạ buồn thảm.
Và van xin ở nhà khác; nhưng người khác nói,
‘Ðây là hột cải, nhưng người làm công trong nhà đã chết!’
‘Ðây là hột cải, nhưng chồng tôi đã qua đời!’
‘Ðây là hột cải, nhưng khi gieo mạ xong thì chồng tôi chết
Giữa mùa mưa và mùa gặt hái!’

Ôi, Bạch Ðức Thế Tôn! Con không thể tìm đâu ra một nhà
Có hột cải mà không có người chết!
Do vậy con đành lìa bỏ đứa con — nó không còn bú
Cũng không cười — dưới một lùm cây, bên cạnh dòng suối,
Ðể rồi về đây chiêm ngưỡng dung nhan Ngài,
Ðảnh lễ dưới chân Ngài, và bạch hỏi van xin Ngài chỉ cho
Nơi nào có thể tìm ra hột cải ấy và không thấy thần chết,
Quả thật vậy, nếu giờ đây con của con không chết,
Như con sợ, và như người ta nói với con.”

Bà Kisàgotami bạch như vậy.

Ðức Bổn Sư dạy,

“Này bà tín nữ! Bà đã tìm ra,”
“Tìm được cái gì mà không ai tìm thấy —
Niềm an ủi đắng cay mà Như Lai tặng cho bà.
Ðứa con yêu dấu đã an giấc nghìn thu
Trong vòng tay của bà ngày hôm qua;
Hôm nay bà biết rằng toàn thể thế gian mênh mông này
Ðều than khóc nỗi khổ đau của họ cũng giống vậy.”
[8]

“Ðối với người mà tình thương đã gắn bó
Tập trung và bám chặt vào con cái và đàn gia súc,
Cái chết tràn đến như trận thủy lụt trong đêm tối,
Càn quét cuốn đi trọn cả làng đang ngon giấc.”
[9]

Những lời của Ðức Bổn Sư thấm sâu vào tâm bà, lúc bấy giờ đã thấu triệt rằng vô thường là đặc tướng của tất cả mọi hiện tượng sinh tồn. Bà chứng đắc tầng thánh đầu tiên (sotàpànna, nhập lưu) và xin xuất gia, gia nhập vào Giáo Hội Tỳ Khưu Ni. Sau đó không bao lâu, nhờ nghe những thời thuyết giảng của Ðấng Bổn Sư Ðại Từ Ðại Bi, và nhờ chuyên cần hành thiền, bà tiến đến mức tuyệt đỉnh thanh tịnh, tầng thánh cuối cùng, vượt ra khỏi mọi bợn nhơ của đời sống. Về sau, nhớ lại những thành tựu cao cả đã đạt, bà nói lên một số kệ ngôn mà dưới đây xin ghi lại hai câu cuối cùng:

“Hoan hỷ thay! Ta đã dấn bước
Trải qua con đường Thánh Thiện, Bát Chánh Ðạo
Thẳng tiến đến trạng thái cao siêu.
Ta đã chứng ngộ Niết Bàn, và nhìn vào
Gương sáng của Giáo Pháp thiêng liêng.

Ta, chí đến ta, vết thương đau khổ cũng được hàn gắn,
Ðã đặt xuống gánh nặng, nhiệm vụ đã viên mãn hoàn thành,
Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát,
Ta, sư cô Kisàgotami, đã tuyên ngôn điều này!”
[10]

Chú thích:

[1] Xin xem phần trên, Tích chuyện Bà Mahà Pajàpati Gotami.

[2] Bản Chú Giải nói: “Trong rừng vào lúc ấy không có gì giống như vậy. Nhưng tên du đãng nói như thế vì muốn làm cho sư cô hoảng sợ.”

[3] Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay nói cách khác, là danh và sắc, cái mà được gọi là chúng sanh.

[4] Ðau khổ hay bất toại nguyện, nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt đau khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ.

[5] Ðức Phật nói đến ba loại ảo ảnh (tiếng Pali là vipallàsa, Sanskrit: viparyàsa) bám níu vào tâm con người.

[6] Paramatthadìpanì, Chú Giải bộ Therìgàthà, Trưởng Lão Ni Kệ.

[7] Psalms of the Sisters, trang 107

[8] The Light of Asia.

[9] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 287. Psalms of the Sisters, trang 107

[10] Psalms of the Sisters, trang 109.

-ooOoo-

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app