Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện – Chương Xviii – Những Bài Viết Ngắn – Phật Giáo Và Hòa Bình Thế Giới

Phật Giáo Và Hòa Bình Thế Giới

Cách nay hơn chín mươi năm, Tướng Sherman nói, “Tôi đã mệt mỏi và chán ngán chiến tranh. Vinh quang của nó chỉ như ánh mặt trăng … Chiến Tranh là địa ngục.” Hơn một trăm năm trước đó, Benjamin Franklin đã nói: “Không bao giờ có một chiến tranh tốt hay một hoà bình xấu.”

Một trăm năm trước, john Milton tuyên bố: “Chiến tranh có thể sanh ra gì, nếu không phải là chiến tranh vô tận.” Hai ngàn năm trước Milton, Thucidides, sử gia người Hy Lạp, trong quyển History, thấy rằng “chiến tranh là một điều xấu, là cái gì mà tất cả chúng ta đều biết, và liệt kê tất cả những tệ hại dính liền với nó là vô ích.”

Và hai trăm năm trước đó nữa, cách nay gần hai mươi sáu thế kỷ, Ðức Phật Siddhattha Gotama, Vua Hòa Bình (Santiràjà), đã thuyết giảng nhiều lần để chỉ rõ tệ hại của chiến tranh.

Huấn lịnh mà Ngài ban truyền cho những vị đệ tử kế cận chứa đựng ý niệm hòa bình: Hãy đi đó đây, này chư đệ tử, vì tình trạng an lành và hạnh phúc của chư thiên và nhân loại. Hãy ban rải bức thông điệp đượm nhuần ý niệm hòa bình của Giáo Pháp” (Vinaya Mahàvagga, phẩm Mahàvagga của Tạng Luật).

Chiến tranh mà có một thời nào là phương tiện để giành thị trường, ngày nay chính nó là cuộc giao dịch có lợi. Kỷ nghệ chế tạo vũ khí giết người và chất độc đem lại những mối lợi khổng lồ, và một phần các mối lợi này được xử dụng để mua chuộc những người ủng hộ “chiến tranh vì lẽ này, hay chiến tranh vì điều kia”, luôn luôn có lý do biện giải mới mẻ và một loại ma quỷ mới để làm cho người phản đối nhút nhát phải rụt rè kinh sợ.

Có một thời nhiều quốc gia tin tưởng nơi toa thuốc cho rằng nếu anh muốn hoà bình anh phải chuẩn bị chiến tranh, nhưng một cuộc quan sát tình hình quốc tế trong vài thập niên qua cho thấy rằng toa thuốc ấy không công hiệu.

Một toa thuốc chắc chắn công hiệu hơn nằm trong ánh sáng của những gì Ðức Phật Gotama công bố 2,500 năm về trước: “Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm suy giảm hận thù, chỉ có tình thương mới làm giảm bớt lòng thù hận. Ðó là nguyên tắc từ ngàn xưa.”(Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 5).

Liên Hiệp Quốc được ủy thác gìn giữ hòa bình trên thế giới và đại diện cho niềm hy vọng của nhân loại. Liên hiệp này được sáng lập với mục đích chánh là duy trì và thiết lập hòa bình. Tổ chức này đặc biệt có nhiều ý nghĩa trong những lúc căng thẳng và khủng hoảng.

Ngày nay toàn thể thế gian đang trải qua những thời kỳ khó khăn. Thế gian của chúng ta bị phủ vây tứ bề giữa những vấn đề khó khăn đang làm hao mòn nền tảng hòa bình và thiện ý của mọi người. Có tệ nạn ghiền ma túy và ô nhiễm xã hội ngày càng tăng trưởng trong giới trẻ mà không có dấu hiệu nào chận đứng tình trạng phá sản này.

Người ta càng ngày càng ý thức hơn và quan tâm đến ô nhiễm biển cả, ô nhiễm không gian và ô nhiễm đất đai. Nhưng con người có hay biết đến nạn ô nhiễm đạo lý đang tràn ngập thế gian ngày nay không? Thay vì tiến bộ khoa học và kỹ thuật, mục tiêu của một nền văn hóa thanh bình và công lý vẫn còn lẫn tránh, và liều thuốc vạn ứng do con người vật chất sáng tạo vẫn không đem lại thỏa mãn.

Các chuyên viên nói với ta rằng kiến thức về khoa học và kỹ thuật đã tăng trưởng gắp đôi trong vài thập niên qua, nhưng những vấn đề khó khăn của thế gian cũng tăng gắp đôi. Tại sao? Hiển nhiên là kiến thức khoa học và kiến thức kỹ thuật không đem con người lại gần hơn giải đáp cho những vấn đề khó khăn của thế gian. Loại kiến thức ấy chỉ dẫn đến tình trạng sanh sôi nảy nở vấn đề càng nhanh chóng hơn và dẫn nhân loại đến cạnh vực thẩm của nạn tự hủy diệt với khí giới hạt nhân.

Vị cố Tổng Thống Hoa Kỳ, Dwight D. Eisenhower, nói: “Khoa học hình như sẵn sàng ban bố cho ta món quà cuối cùng của nó, năng lực bôi bỏ đời sống của con người trên hành tinh này.” Nhưng làm sao tránh cho thế gian sự tàn phá khủng khiếp ấy? Giải đáp cho cuộc chạy đua trang bị vũ khí hạt nhân đến Armageddon (nơi mà cuộc giao tranh giữa hai lực lượng, thiện và ác, cuối cùng kết thúc) là thế nào?

Vài lý thuyết chánh trị của thế kỷ hiện tại tuyên bố rằng phát triển kinh tế là “tất cả” và “chấm dứt tất cả”, và nếu dân chúng được khá giả về mặt kinh tế thì tất cả đều tốt đẹp.

Ðó là tư tưởng sai lầm chủ trương rằng những giá trị tinh thần hay giá trị của tâm là không cần thiết nếu có giá trị khoa học. Ðó là nhược điểm của nền văn minh thế giới ngày nay: không biết đến giá trị tinh thần.

Ðể kiểm soát những động lực vị kỷ ta cần phải cố gắng và tôn trọng kỷ luật. Ðó là những điều đến với ta, không phải bằng con đường của khoa học, mà từ kỷ luật của một tôn giáo.

Như một vị thầy thực tế có lòng bi mẫn và hiểu biết vô lượng, Ðức Phật luôn luôn chú tâm đến tình trạng xã hội và kinh tế an lành của đám đông, và lúc nào cũng muốn làm vơi nỗi khổ của dân chúng bằng những lời khuyên dạy, và thấy họ sống mà không có quá nhiều bất hạnh.

Lẽ dĩ nhiên là nếu không có tình trạng an ninh vật chất và kinh tế ổn định đến một mức độ nào, không thể có tiến bộ tinh thần và đạo đức. Theo giáo huấn của Ðức Phật, an ninh kinh tế phải tay cầm tay cùng đi chung với những giá trị tinh thần. Con người không nên đi lệch ra khỏi con đường nhiệm vụ. ngay thẳng và thanh liêm chánh trực, nhưng phải cố gắng tìm mức quân bình giữa những giá trị vật chất và tinh thần.

Với mức độ tiến hóa của khoa học hiện đại rất nhiều chuyển biến đã xảy diễn, và những cải tiến và biến đổi ấy, vốn dĩ là vật chất và ở bên ngoài, có chiều hướng làm cho con người hiện đại ngày càng thiên về thế gian và những dục vọng trần gian, kết quả là họ lãng quên, không quan tâm đến, hay cố ý bỏ lơ, những đức tánh của tâm và trở thành vị kỷ và chai đá. Những làn sóng vật chất hình như ảnh hưởng và đổi thay đường lối suy tư và sinh sống của nhân loại. Người ta bị ràng buộc quá nhiều trong nhục dục ngũ trần, chỉ sống trong thế gian vật chất, đến độ không còn tiếp xúc với những gì tốt đẹp bên trong mình.

Nếu những cường quốc chánh yếu không thay đổi đường lối của họ, chúng ta còn phải đối phó với thảm kịch trầm trọng nguy hại của nhân loại. Thế gian bị chiến tranh đe dọa. Chiến tranh ở đây có nghĩa là hoàn toàn diệt chủng, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt. Một cuộc đổi thay đường lối của những đại cường quốc là giải pháp duy nhất cho nền hòa bình thế giới. Tất cả những hội nghị hòa bình chân chánh và những buổi họp để nguyện cầu sẽ góp phần truyền bá bức thông điệp hòa bình thế giới cho người dân đang ở ngã rẻ của thời cuộc.

Những quốc gia nhỏ gây chiến tranh vì các quốc gia hùng mạnh và giàu có hơn trợ giúp họ. Cuộc chiến để giành quyền lợi giữa những quốc gia cường thạnh này liên tục tiếp diễn — quả bóng được vứt ra sân cho kẻ khác. Những phương sách chữa trị để ngăn ngừa một tai biến thế gian phải xuất phát từ đáy lòng.

Ta còn nhớ một diễn biến đã xảy ra vào những năm đầu của thập niên sáu mươi, khi Thủ Tướng Chu-En-Lai (Châu Ân Lai) của Trung Quốc đến viếng Ấn Ðộ để thảo luận về biên giới Ðông Dương. Trong cuộc họp lịch sử ấy, vị Thủ Tướng Ấn Ðộ thời bấy giờ, Jawaharlal Nehru, đã trích dẫn một câu của Dhammapada, Kinh Pháp Cú:

“Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù (nơi người chiến bại);
Kẻ chiến bại sống đau khổ.
Hạnh phúc thay, người sống thanh bình an lạc,
Dứt khoát từ bỏ, thắng và bại.”
— (Pháp cú, 201)

Vì lẽ chiến tranh bắt đầu từ trong tâm của con người, ta phải nhớ rằng ta chỉ sống trên một đớm nhỏ tí ti trong vũ trụ, được gọi là “quả địa cầu”. Nhiều người nghĩ rằng trái đất đang tiến bộ. “Ngày nay chúng ta có đủ tất cả những gì ta cần,” họ nói. Ðúng vậy, người ta còn lên đến tận mặt trăng nữa là khác. Họ đặt hầu như tất cả mọi sự vật dưới quyền chi phối của họ. Họ có tài sản vật chất, những phương tiện và những tiện nghi để thỏa mãn dục vọng. Chúng ta có những nhà trí thức, những văn hào trứ danh, những diễn giả, những chuyên viên y khoa, triết gia, tâm lý gia, kinh tế gia, luật sư và kỹ sư v.v… Dầu có đầy đủ những điều ấy, thế gian vẫn còn thiếu hòa bình, thiếu tinh thần hòa hợp, đoàn kết và thiếu tinh thần tương quan trách nhiệm.

Như Ðức Phật dạy: “Hãy nhìn vào bên trong chúng ta.” Tất cả những phương tiện cứu chữa phải xuất phát từ đáy lòng. Chúng ta phải thiết lập trạng thái thanh bình an lạc trong tâm của chính ta, trước khi quảng bá bức thông điệp hòa bình đến kẻ khác và đến thế gian.

Ðiều mà ta cần làm ngày nay là tạo một chuyển biến trong tâm con người, hơn là thay đổi môi trường sinh sống.

Bởi vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm con người, bởi vì xung đột là nguyên nhân của chiến tranh, trong cuộc mưu tìm hòa bình, ta phải dẹp bỏ những nguyên nhân xung đột. Lời mở đầu của Hiến Chương UNESCO nhắc nhở chúng ta rằng “Công cuộc phòng thủ hòa bình phải được xây dựng chính trong tâm của con người.”

Trước đây hai mươi lăm thế kỷ, Ðức Phật cũng tuyên ngôn tương tợ. Ngài còn đi xa hơn thế nhiều; Ngài tuyên bố rằng tất cả mọi sự vật, tốt hay xấu, đều xuất phát từ nơi tâm.

Ðức Phật nói: “Ta phải thường suy niệm về tâm mình như thế này: ‘Từ lâu rồi tâm này bị tham, sân và si làm ô nhiễm. Ô nhiễm tinh thần làm cho chúng sanh bợn nhơ, thanh lọc tinh thần làm chúng sanh trong sạch …'”

Chỉ quảng cáo suông bên ngoài và chỉ dùng những khẩu hiệu, không thể giải quyết vấn đề khẩn thiết của chiến tranh, vì nguyên nhân của nó nằm trong tâm. Mỗi người có một người tốt hơn nằm bên trong mình.

Nếu chỉ có tình thương và tâm hiểu biết lẫn nhau nhịp nhảy xuyên qua giáo huấn mà bậc Toàn Giác của tất cả thời đại làm quy tắc hướng đạo cho hành động của con người, chúng ta sẽ khỏi phải sống trong bầu không khí ngờ vực, ganh tỵ, kiêu căng, tham lam, sân hận và si mê, đã làm cho thế gian ngày càng là một trại tù binh và dẫn đắt chúng ta một cách vững chắc đến bờ vực Armageddon.

Hạnh phúc thật sự đồng nghĩa với hoà bình thật sự. Không thể có hạnh phúc mà không có hòa bình. Mục đích của Giáo Pháp là hòa bình, và trên tất cả, Giáo Pháp là con đường dẫn đến hòa bình. Hãy thành thật và thật sự cố gắng để nới rộng hòa bình, tình đoàn kết và tình huynh đệ giữa con người bằng Giáo Pháp, và dẹp bỏ mọi căng thẳng dưới danh nghĩa tôn giáo, giai cấp, màu da, và những thành phần chia rẽ và bất hòa khác.

Khi nói đến hòa bình thế giới, các vị đại diện của những tôn giáo khác nhau đều có một vai trò quan trọng và mang nhiều ý nghĩa. Chúng ta hãy bắt đầu phong trào hòa bình này trong quốc gia của mình bằng cách thuyết giảng và viết bài về đề tài hòa bình. Cũng phải đi từ làng này qua làng khác và thị trấn nọ đến thành phố kia, nói chuyện với dân chúng về những phước lành của tình trạng đoàn kết và hòa bình và giảng dạy, làm cho họ thức tỉnh và hoan hỷ, như Ðức Phật ở Ấn Ðộ, hơn 2,500 năm về trước.

Các quốc gia phải hoạt động để được an lành và phát triển, nhưng cùng lúc phải ghi nhận, không nên bỏ lơ mục tiêu rộng rãi hơn là hòa bình và an ninh của toàn thể thế gian. Tất cả mọi quốc gia, dầu là đệ tam hay gì khác, đều cần được hòa bình; bởi vì không có hòa bình sẽ không có tiến bộ, phát triển, hòa hợp, trong đời sống dân chúng. Khi có hòa bình dân chúng có thể hoạt động với lòng tự tin, và tự tin là nền tảng để phát triển.

Hai mươi ba thế kỷ về trước, Hoàng Ðế Asoka (A Dục) có cho ghi tạc trên đá: “Samà vàyo eva sàdhu — Hòa thuận, quả thật vậy, đáng được tán dương.” Ðại Ðế Asoka bước theo dấu chân của Ðức Bổn Sư, người đã từng nói: “Samaggà hotha mà vivadatha — Hãy đoàn kết, không nên cãi lẫy ồn ào.” Ðây là những tuyên ngôn tích cực mà ngày nay chúng ta cần hơn bao giờ hết; bởi vì chúng ta đang sống trong một thời kỳ xung đột và chiến tranh, thù hận và bạo tàn, cùng khắp thế gian. Không bao giờ trước đây chúng ta cần hơn và tất cả chúng ta phải nhớ thông điệp khuyến thiện cao cả tuyệt luân của Ðức Sakyamuni Buddha (Ðức Phật Thích Ca) và Asoka.

Hôm nay chúng ta nói về hòa bình. Ðúng vậy, hòa bình là quyền của chúng ta từ lúc mới sanh, và chúng ta phải đạt cho kỳ được, hòa bình căn cứ trên chân lý, từ bi, công lý và tự do. Nếu người ta công bình và ngay thẳng, gìn giữ lương tri và đương đầu với thời cuộc, dây thân ái và sự thông cảm lẫn nhau giữa những quốc gia, chủng tộc, cộng đồng và tôn giáo khác nhau sẽ được tăng cường vững chắc.

Những nguyên tắc: quốc gia này không nên xen vào nội bộ của quốc gia khác và mỗi quốc gia đều được độc lập về mặt chánh trị, là điều kiện tất yếu để sống chung hòa bình. Tỉ mỉ tôn trọng tình trạng lãnh thổ nguyên vẹn và quyền tối thượng của một xứ, không xâm phạm nhau, bình đẳng, không chạm đến quyền lợi của nhau, và sống chung hòa bình, hòa hợp, trong thế gian, là những điều mà sẽ không có ai phủ nhận giá trị của nó.

Tình thương không nằm trên sự gây gổ tranh chấp mà trên thiện cảm nể trọng nhau. Nguyên tắc tình thương phải được thấu rõ và áp đặt trong mọi lãnh vực hoạt động của con người để tăng trưởng hạnh phúc nhân loại và làm tốt đẹp hơn lối cư xử trong xã hội. Hòa bình không phải là một lời nói tiêu cực. Nó là cái gì thật sự rất tích cực. Nó bao gồm sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau, chung cùng hợp tác với nhau và tình thương. Trong không khí tương tợ chỉ có hoà bình thật sự khởi sanh. Hoà bình phải được thành đạt bằng cách nhiệt thành và thành thật tranh đấu. Không thể bằng cách chỉ nói suông. Ta phải suy tư hòa bình, nói hoà bình và hành động hoà bình.

Ý niệm chánh nằm phía sau tất cả những tổ chức yêu chuộng hòa bình như Liên Hiệp Quốc là tất cả mọi người là anh chị em. Nếu đúng thật là vậy, tại sao sát hại lẫn nhau, hận thù lẫn nhau, chụp giựt lãnh thổ của nhau và bắt người ta làm nô lệ cho mình? Tại sao có thể cướp đoạt ưu quyền mà người ta đã có từ lúc mới ra đời? Ngày nay không có ai độc lập, không quốc gia nào thật sự là độc lập. Chúng ta phải tùy thuộc nơi những quốc gia khác để có những gì cần thiết cho đời sống, những nhu cầu căn bản như vật thực, quần áo, chỗ ở và thuốc men. Những phương tiện truyền thông và giao dịch đã thành tựu nhiều kết quả kinh ngạc. Ấn loát, truyền thanh, truyền hình, giáo dục hiện đại v.v… đã đem chúng ta xích lại gần với nhau hơn. Giao thông cho chúng ta cảm tưởng rằng toàn thể thế gian là một, và chúng ta là một thế gian.

Một yếu tố góp phần trọng đại cho việc nới rộng hòa bình trong xã hội là chánh ngữ, lời nói chân chánh. Có câu tục ngữ: “Lời nói đã thốt ra, mũi tên đã bắn đi và cơ hội đã mất, không bao giờ có thể thâu hồi.” Lời nói là một thiên tánh có nhiều giá trị quý báu bởi vì xuyên qua lời nói chúng ta có thể diễn đạt tư tưởng và quan kiến để chia sẻ với người khác. Nhưng nếu cái lưỡi, vốn không xương và mềm mại dễ uốn, không được khép vào khuôn khổ kỷ cương, ắt có thể gây nhiều tai hại. Có phải chăng nó là nguyên nhân gây nhiều cãi vã, tranh chấp và xáo trộn phiền lụy giữa những gia đình và chiến tranh giữa các quốc gia? Nếu con người có thể chỉ thuần hóa cái lưỡi của mình, có phải thế gian sẽ là một nơi tốt đẹp hơn để sống không?

Như vậy người hành theo Con Ðường Chân Chánh “suy niệm tâm từ, suy niệm tâm bi, suy niệm tâm hỷ, và suy niệm tâm xả, ban rải theo một chiều hướng; cùng thế ấy rải về một hướng thứ nhì; hướng thứ ba; hướng thứ tư; rồi bên trên và phía dưói; người ấy thấm nhuần toàn thể thế gian, mọi nơi và đồng đều, bình đẳng, chân thành và tận tình, với tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, thâm sâu, rộng lớn, vô lượng, hoàn toàn không ẩn ý bất thân thiện và phiền muộn.”

Nếu ta có thể phát triển những phẩm hạnh đạo đức ấy, chí đến những ngôi sao sáng chói cũng không thể hơn ta.

Hòa Bình Bằng Ngũ Giới

Ðứng về quan điểm của người Phật tử, có một phương cách khác để tạo hòa bình là giữ gìn năm giới. Là Phật tử hay không phải Phật tử, bất luận ai nghiêm trì năm giới tối thiểu (pancasìla — kiêng cữ sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ và dùng chất say) sẽ đem lại hòa bình và hòa hợp bất cứ ở đâu. Người ta không lo sợ hay hoài nghi người thọ trì và thực hành năm giới; bởi vì những người ấy không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không say sưa, mà là những người có lòng tốt, cố gắng mở rộng hòa bình, hòa hợp, tình huynh đệ và đoàn kết. Giờ đây ta hãy xem qua năm giới.

Lòng rộng rãi bố thí không phải chỉ đối với chúng sanh trong cảnh người. Những người bạn đồng hành câm điếc và buồn thảm của chúng ta trong cảnh thú cũng phải được tâm quảng đại của chúng ta nghĩ đến. Tất cả những ai có thể thừa hưởng lợi ích của tâm bố thí phải được chia sẻ.

Dầu sao những quà tặng vật chất và những lễ vật để bát, trai tăng chỉ đem lại chút ít phước báo. Nhưng người trau giồi phẩm hạnh là phước lành cho tất cả chúng sanh. Người ấy bố thí cho tất cả chúng sanh tình trạng không lo sợ, do đức hạnh trong sạch vô nhiễm của mình.

Do đó Ðức Bổn Sư dạy:

“Nơi đây, này chư tỳ khưu, một đệ tử từ bỏ sát sanh là kiêng cữ trong vấn đề sát sanh … từ bỏ trộm cắp là kiêng cữ trong vấn đề trộm cắp … từ bỏ tà hạnh là kiêng cữ trong vấn đề tà hạnh … từ bỏ nói dối là kiêng cữ trong vấn đề ăn nói giả dối … từ bỏ uống rượu mạnh là kiêng cữ trong vấn đề rượu chè, và như thế ấy ban bố cho những chúng sanh khác quà tặng an ninh, không thù hận, và không gây tổn hại. Loại tâm tánh mà đem lại hạnh phúc và thoải mái tâm hồn, không bao giờ có chỗ trống để tình trạng ăn năn hối hận phát khởi, dẫn đến tái sanh tốt đẹp và là nền tảng cho một kiếp sống tốt, nơi đây và trong hiện tại, (loại tâm tánh như vậy) được gọi là đức hạnh.”

  1. Sát Sanh

Kiêng cữ không sát hại chúng sanh khác vì hiểu biết rằng chính ta quý trọng đời sống của ta đến mức nào, và suy bụng ta để hiểu rằng cũng dường thế ấy, người khác cũng quý mạng sống của họ ra sao. Tất cả hạnh phúc của con người trên thế gian đều tùy thuộc vào đời sống. Như vậy, đoạt mất của người cái mà chứa đựng tất cả những gì tốt đẹp nhất của họ, quả thật là hung bạo và nhẩn tâm đến mức cùng cực. Do đó ta hiểu tại sao người tiêu diệt mạng sống người khác chuốc lấy cho mình lòng thù hận và ác ý của người mình sát hại? Nhưng người giới đức trong sạch, kiêng cữ không sát hại chúng sanh, luôn luôn bảo vệ sanh linh, người biếu món quà an ninh cho chúng sanh khác, cũng tựa hồ như cội cây vững chắc, làm nơi ẩn náu và che mát cho người, cho chim chóc và thú vật, với tàng lá sum sê và bóng lớn mát mẻ của mình.

Mặc dầu cuộc sống của họ đầy hiểm nguy và chết chóc và phải đương đầu với bao nhiêu khủng khiếp kinh hoàng, họ vẫn vững chắc quyết định cứu nguy cho tất cả những sanh linh hữu tri hữu giác.

  1. Trộm cắp

Những vật thuộc sở hữu của người khác, những vật mà người khác làm chủ, người đi theo con đường của Giáo Pháp (Dhamma) không bao giờ lầm lạc lấy làm của mình. Sai lạc lấy của người, bằng bạo lực, cưỡng bách hay lường gạt, là trái với mọi tiêu chuẩn phẩm hạnh đoan trang thanh nhã và hợp với lễ nghi. Sách của người thời xưa có ghi:

“Sai lạc lấy của người khác trở thành nguyên nhân mất mát cho chính mình.” Và lại nữa: “Cạm bẩy của tử thần không có cái nào tệ hại bằng trộm cắp.” Bởi vì người trộm cắp và cướp giựt kẻ khác sẽ bị vua trừng phạt và dân chúng nhục mạ, phải chịu đau đớn và khổ tâm vô cùng tận. Do đó phải tránh hành động tội lỗi, sai lạc lấy vật sở hữu của người khác cũng như ta tránh độc dược, tránh lửa và rắn độc đáng sợ. Người nghiêm trì giới trộm cắp được an lành, bên trong và bên ngoài. Người ấy sống hạnh phúc, cho người khác hạnh phúc và sẽ nhắm mắt ra đi an lành.

  1. Tà Hạnh

Người trong sạch giữ giới tà hạnh được phước lành là tâm bao giờ cũng thanh bình an lạc và tĩnh lặng, thân luôn luôn khỏe mạnh và có nhiều nghị lực. Người ấy mạnh mẽ thăng tiến trên đường đời và trong những trạng thái tâm cao quý.

Người sống thanh bạch trinh khiết được sắc đẹp, sức mạnh,
Ðược bậc thiện trí tán dương, và vui vẻ khỏe mạnh;
Tâm của người ấy trong sáng và thích hợp để đi
Trên Con Ðường đến Chân Lý; và người ấy kết hợp
Với tư tưởng cao quý, hành động hiền hòa,
Và lời nói trong sạch; người ấy gieo hột giống
Hiếm có của đức hạnh; làm cho tất cả sinh sôi nảy nở,
Và trổ hoa. Rồi quả lành sẽ phong phú dồi dào.

Nhưng số phận của người sống tà hạnh quả thật buồn thảm. Họ làm nhơ đụt luồng tâm của họ và của người khác.

  1. Nói Dối

Chân lý là tiếng nói của nội tâm trong sạch. Người giữ giới nói dối có uy tín, được nhiều người tin cậy, và được những người quen biết kỉnh mộ. Ðây là giới đức mà chư vị Bồ Tát, những người đang tìm trạng thái giác ngộ tuyệt đối, đặc biệt chú trọng thực hành. Các Ngài không bao giờ thốt ra một lời không thật, trong bất luận trường hợp nào. Người nói thật không sợ hải và run rẩy giữa đám đông. Người ấy luôn luôn can đảm và cương nghị, và dầu phải đương đầu với những hành vi thù nghịch nhất cũng không lay chuyển. Người ấy cứng cỏi với sức mạnh của một chủ nhân phi thường trang bị đầy đủ, bởi vì tâm của người ấy thanh khiết như thủy tinh, trong trẻo và không mang một đớm nhơ. Người ấy luôn luôn vui vẻ và hiền hòa, lễ độ và ưa giúp người, tự chế và kiên nhẫn, có lời nói làm cho người nghe thỏa thích và tĩnh lặng với sự hùng biện của sự thật, hồn nhiên, không cố gắng. Người như thế ấy có thể nói:

Tâm ta trong sạch vì tất cả mọi suy tư đều là sự thật;
Ý ta thanh tịnh sáng ngời; không ẩn ý giả dối.
Lời nói ta tinh khiết, không có gì làm bợn nhơ,
Một sự trôi chảy dịu dàng như chất dầu trong suốt.

Người nói dối ở đâu cũng bị nghi ngờ. Người nói lời giả dối mà không biết hổ thẹn không có đức hạnh trong tâm. Không có điều sai lầm nào mà người cố tình nói dối không thể làm. Sách nói như vậy.

Nếu người đã chọn lối sống không nhà cửa của bậc xuất gia mà nói dối, do chính sự thốt ra lời giả dối ấy tự nó, đã làm cho đời tu sĩ rỗng không.

“Rỗng không này Ràhula, đời sống của nhà sư mà không biết hổ thẹn, nói lời giả dối,” Ðức bổn Sư nói như vậy để khuyến dạy sa di Ràhula về tầm quan trọng của lời nói thật trong đời sống thánh thiện (Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 61).

Hơn nữa, người nói dối sẽ mang nghiệp xấu trong tương lai. Người ấy trở thành khờ dại, ngu si, bị người ghê tởm lánh xa và lời nói mất hết năng lực.

  1. Chất Say

Ta kiêng cữ, không dùng những chất say để giữ cho tâm khỏi bị loạn động. Rượu mạnh và ma túy hủy hoại lối suy tư chân chánh, tức có những ý tưởng không-sân hận, không-hung bạo, và ý nghĩ từ khước. Người say sưa nóng giận, hung dữ, không tỉnh trí. Vì lẽ ấy những ai bước theo dấu chân của Ðức Phật, đã biết rõ những tệ hại của lối suy tư lầm lạc trong lúc say sưa, không để cho tâm trí bị ô nhiễm vì chất độc của rượu, vốn có khả năng đốt cháy năng lực mầm mống của những hạt giống tốt trong tâm.

Về những tệ hại của thói quen say sưa, Àryasùra, trong Jàtakamàla nói:

“Ôi, vị chúa tể của loài người, tại sao Ngài có thể
Say sưa, làm cho những đức tánh tốt đẹp tan vỡ,
Những gì có giá trị đều chết, tàn phá thanh danh,
Làm mờ nhãn quan, và đẩy lui mọi hổ thẹn?”

* * *

Ðó là kho tàng phẩm hạnh mà người muốn được hạnh phúc phải tăng trưởng và bảo vệ. Ðó là những phương tiện thích nghi để thành đạt tất cả những gì tốt đẹp trong hiện đời và mai sau.

Tất cả những gì quý giá trong nội tâm đều bắt nguồn từ giới hạnh. Cũng như trong một hầm mỏ phong phú có vô số kể những kim cương và châu báu, cùng thế ấy, đức hạnh cho người giới đức những thích thú vô cùng tận.

Ðức hạnh là vùng đất mà từ đó ta có thể bay vọt lên các tầng cao của trạng thái tuyệt đối thánh thiện.

Ðức hạnh là khí giới mầu nhiệm mà ta dùng để tiêu diệt dục vọng, là áo giáp để chống đở và đánh bại những cơn bão táp của Màra (Ma Vương, tử thần). Ðức hạnh làm cho đời sống vui tươi, đượm nhuần năng lực sáng tạo, sanh khí, và trạng thái mát mẻ dễ chịu.

Ðức hạnh cũng giống như đám mưa mát mẻ, trong sạch, làm cho cây cối xanh tươi.

Người có đức hạnh thành đạt trạng thái vinh quang rực rỡ của người danh thơm tiếng tốt, nhiều tiền của và được tôn trọng.

Con người đức hạnh luôn luôn chú niệm và giác tỉnh. Ðến lúc lâm chung người ấy không suy tư rối loạn mà vắng lặng và trầm tĩnh.

Vì những phước lành kể trên cùng đi chung với đức hạnh, ta dưỡng nuôi, giữ gìn và bảo vệ đức hạnh với lòng nhiệt thành của bà từ mẫu hết tình đùm bọc đứa con duy nhất, (như bảo bọc) con ngươi của bà. Ðức hạnh cho ta tình trạng không sợ sệt, an ninh, thanh bình và tâm bi mẫn đối với tất cả chúng sanh.

Khái niệm Từ và Bi (mettà và karunà) của người Phật tử không có giới hạn. Theo nhân sinh quan của người Phật tử, không có chúng sanh nào được xem là ở ngoài vòng của tâm từ (mettà) và tâm bi (karunà). Hai phẩm hạnh từ và bi này không có sự phân biệt giữa người cao hay thấp, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, minh mẫn hay tối tăm, đen hay trắng, bà-la-môn hay chăn-đà-la, hay Thiên Chúa Giáo, Ấn Ðộ Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Phật Giáo v.v… Mettà và Karunà, Từ và Bi, là vô lượng vô biên và khi mà ta cố gắng sắp xếp người này phân biệt với người khác theo lối sắp xếp giả tạo kể trên, thì tức khắc cảm giác phân chia nhảy sổ vào và những đức tính vô lượng vô biên trở thành có giới hạn — trái nghịch với lý tưởng cao siêu của những đức hạnh này.

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app