-11-

THẤT GIÁC CHI (Satta Bojjhanga)

Tam Tạng Kinh (Tipitaka), kinh điển Phật Giáo bằng tiếng Pali, thường nhắc đến những yếu tố của sự giác ngộ mà Ðức Phật nhiều lần giảng giải, trong nhiều trường hợp khác nhau. Trong bộ Samyutta Nikàya (Tạp A Hàm), phẩm Mahà Vaggà có một phần riêng biệt đề tựa là Bojjhanga Samyutta trong đó Ðức Phật giảng giải những yếu tố của sự giác ngộ (bojjhanga, giác chi) bằng nhiều lối khác nhau.

Phần này có ba bài kinh mà từ thời Ðức Phật, người Phật tử thường đọc tụng như một loại kinh để bảo vệ (paritta hay pirit) chống lại đau nhức, bịnh hoạn và những bất hạnh trong đời v.v…

Danh từ “bojjhanga” gồm hai phần: bodhi + anga. “Bodhi” hàm ý chứng ngộ, hay nói một cách chính xác, tuệ minh sát hiểu biết sâu sắc liên quan đến Tứ Diệu Ðế, tức: Diệu Ðế về sự Khổ; Diệu Ðế về Nguồn Gốc của sự Khổ; Diệu Ðế về sự Diệt khổ và Diệu Ðế về Con Ðường dẫn đến Diệt khổ. “Anga” có nghĩa là yếu tố hay tay chân. Do đó Bodhi + anga (bojjhanga) là những yếu tố của sự giác ngộ, hay những yếu tố của tuệ minh sát, trí tuệ. Ta thường gọi là thất giác chi, hay bảy bồ đề phần. “Bojjhanga! Bojjhanga! là thành ngữ, Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ dạy, thành ngữ này có thể được áp dụng đến mức nào?” Một vị tỳ khưu bạch hỏi Ðức Phật như vậy. “Bodhàya samvattantìti kho bhikhhu tasmà Bhojjhangà ti vuccati.” “Nó dẫn đến giác ngộ, này tỳ khưu, vì lẽ ấy được gọi như thế,” là lời giải đáp vắn tắt của Ðức Bổn Sư. [1]

Ở một đoạn khác Ðức Phật dạy, “Này chư tỳ khưu, cùng trong một ngôi nhà nóc nhọn, tất cả cây kèo đều đâm vào gốc nhọn, đều nghiêng về gốc nhọn, đều châu đầu vào gốc nhọn, và trong toàn thể sườn nhà cái gốc nhọn được xem là điểm chánh. Cùng thế ấy, này chư tỳ khưu, vị tỳ khưu trau giồi và chuyên cần phát triển bảy yếu tố của trí tuệ cũng thiên về Niết Bàn, nghiêng về Niết Bàn, hướng về Niết Bàn như vậy.” [2]

Bảy yếu tố ấy là:

  1. Niệm (sati)
    2. Trạch pháp (dhammavicaya) [3]
    3. Tấn (viriya)
    4. Phỉ (pìti)
    5. An (passaddhi)
    6. Ðịnh (samàdhi) và
    7. Xả (upekkhà).

Một trong những bài kinh về bojjhanga, thất giác chi, có thể được nhắc lại ở đây: “Ta có nghe như vầy. Vào một thủa nọ Ðức Thế Tôn ngự trong thành Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi sóc. Ðại Ðức Mahà Kassapa (Ma Ha Ca Diếp), sống trong động Pipphali, lúc ấy lâm bịnh. Ngài mắc phải một chứng bịnh trầm trọng.

Vào buổi chiều Ðức Phật xuất ra khỏi trạng thái vắng lặng, đến thăm Ðại Ðức Mahà Kassapa, ngồi lại, và ngỏ lời với vị đại đức: “Này Kassapa, hôm nay con đau thế nào? Con có nghe đau đớn quá lắm không; con có chịu nổi không? Cơn đau có thuyên giảm không, hay vẫn còn tăng trưởng? Có dấu hiệu nào cho thấy cơn đau giảm bớt không hay vẫn tăng thêm?”

“Bạch hóa Ðức Thế Tôn, con rất đau đớn. Con không thể chịu nổi. Thật là đau đớn vô cùng. Không có dấu hiệu nào thuyên giảm mà càng lúc càng tăng.”

“Này Kassapa, bảy yếu tố của sự giác ngộ ấy mà Như Lai đã giảng giải tận tường, Như Lai đã trau giồi và phát triển đầy đủ, bảy giác chi này đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ tuyệt hảo, đến Niết Bàn. Bảy giác chi ấy là gì?

“Niệm giác chi, này Kassapa, pháp này Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau giồi và phát triển đầy đủ, và khi mà được trau giồi và phát triển đầy đủ, giác chi này đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ tuyệt hảo, đến Niết Bàn. Trạch pháp giác chi … Tinh tấn giác chi … Phỉ giác chi … An giác chi … Ðịnh giác chi … Xả giác chi.” “Thất giác chi này, quả thật vậy, này Kassapa, Như Lai đã giảng giải tận tường, Như Lai đã trau giồi và phát triển đầy đủ, và khi mà được trau giồi và phát triển đầy đủ thất giác chi này đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ tuyệt hảo, đến Niết Bàn.”

“Quả thật vậy, bạch hoá Ðức Thế Tôn, đó là bảy yếu tố đưa đến giác ngộ! Ðúng thật vậy, bạch hóa Ðức Thế Tôn, đó là thất giác chi!” Ðại Ðức Kassapa nói. Ðó là những lời của Ðức Phật, và tiếp theo là lời của Ðại Ðức Kassapa, đón mừng tiếp nhận những lời vàng ngọc của Ðức Thế Tôn. Liền sau đó Ðại Ðức Kassapa hết bịnh. Lúc bấy giờ bịnh tình của Ðại Ðức Kassapa liền tan biến. [4]

Bài kinh khác, Mahà Cunda Bojjhanga Sutta, một trong ba bài kinh được nhắc đến ở phần trên, ghi rằng lần nọ chính Ðức Thế Tôn lâm bịnh, Ðại Ðức Mahà Cunda đọc tụng bojjhangas, thất giác chi, và sau đó bịnh tình trầm trọng của Ðức Phật liền tan biến. [5]

Tâm của con người ảnh hưởng đến thân một cách rất sâu xa và vô cùng kỳ diệu. Nếu ta để tâm buông lung, tự do trôi chảy và duyên theo những tư tưởng ô nhiễm và tồi tệ, thì nó có thể gây tai hại không thể lường được, đến độ có thể giết chết một chúng sanh. Tuy nhiên, tâm cũng có thể chữa khỏi một chứng bịnh của thân. Nếu ta gom tâm mạnh mẽ vào những tư tưởng chân chánh, với sự hiểu biết chân chánh, thì thành quả mà tâm có thể đạt đến thật vô cùng rộng lớn và sâu xa.

“Tâm không những gây bịnh mà còn có thể chữa bịnh. Một bịnh nhân lạc quan có nhiều hy vọng được chữa trị dễ dàng hơn người luôn luôn lo âu và sầu muộn. Trong những trường hợp đã được ghi nhận, có nơi cho thấy đức tin cũng chữa được hầu như tức khắc những chứng bịnh thuộc cơ hữu.” [6]

Phật Giáo (Buddhadhamma) là giáo huấn dẫn đến giác ngộ. Những ai có nguyện vọng thành đạt giác ngộ, trước tiên nên thông hiểu rõ ràng những trở ngại chặn ngang trên con đường đưa đến giác ngộ.

Theo sự hiểu biết chân chánh của một vị Phật, đời sống là khổ và tình trạng khổ này nằm trên nền tảng vô minh hay avijjà. Vô minh là không nhận thức bản chất giả hợp của năm uẩn (khandànam ràsattham); không nhận thức lục căn và lục trần đúng theo bản chất khách quan của nó (àyatanànam àyatanattham); không nhận thức tánh cách rỗng không hay tương đối của các nguyên tố, những thành phần của vật chất (dhàtùnam sunnattham); không nhận thức bản chất cốt yếu của ngũ căn (indriyànam adhipatittham); không thể nhận thức tánh cách thực tiễn — tánh cách không thể sai lầm của Tứ Diệu Ðế (saccànam tathattham). Và năm pháp triền cái (panca nìvaranàni, năm chướng ngại tinh thần) là chất dinh dưỡng bồi bổ cho (hay tạo duyên cho) vô minh ấy. Ðược gọi là triền cái vì năm pháp này hoàn toàn đóng chặt, cắt lìa và chặn ngang, gây trở ngại cho sự hiểu biết con đường giải thoát ra khỏi đau khổ. Năm chướng ngại tinh thần này là: tham dục (kàmacchanda); oán ghét (vyàpada); dã dượi và hôn trầm (thìna-middha); phóng dật và lo âu (uddhacca-kukkuca) và hoài nghi (vicikicchà).

Và cái gì nuôi dưỡng năm triền cái này? Ba lối hành động bất thiện (tìni duccaritàni): thân, khẩu và ý bất thiện nghiệp. Ba bất thiện nghiệp này đến lượt nó được nuôi dưỡng bằng lục căn không thu thúc (indriya asamvaro). Bản chú giải giải thích rằng không thu thúc lục căn là thâu nhận tham ái và sân hận vào tâm xuyên qua sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (cakkàdìnam channam indriyànam ràgapatighap- pavesanam).

Dinh dưỡng không thu thúc lục căn được chú giải là vì thiếu niệm và hay biết rõ ràng (asati asampajanna), thiếu giác tỉnh. Trong đoạn kinh đề cập đến dinh dưỡng, để trần cảnh lôi cuốn đi mất, để sự hiểu biết về ba đặc tướng của kiếp sinh tồn, vô thường, khổ và vô ngã (anicca, dukkha và anattà) thoát ra khỏi tâm, lãng quên thực chất của vạn pháp là những lý do làm cho ta không thu thúc lục căn. Chính trong những lúc không nhận thức bản chất vô thường, khổ, vô ngã của mọi sự vật ta tự buông lơi cho đủ loại tự do, thả lỏng cho thân và khẩu mặc tình tạo bất thiện nghiệp và trí tưởng tượng mặc tình trôi chảy theo dòng tư tưởng bất thiện. Thiếu hay biết rõ ràng là thiếu bốn điều: thiếu hay biết rõ ràng về mục tiêu (sàttha sampajanna); về tánh cách thích nghi (sappàya sampajanna); về phương sách (gocara sampajanna); về tánh cách không si mê (asammoha sampajanna). Khi ta làm việc gì mà không có mục tiêu chánh đáng, khi ta nhìn sự vật hoặc làm việc gì mà không giúp tăng trưởng thiện pháp, khi ta làm điều gì không đúng theo chiều hướng thuận lợi để cải thiện, khi ta lãng quên Giáo Pháp, vốn là phương sách thật sự mà ta gia công, khi ta si mê bám níu vào sự vật, lầm tưởng là nó đáng được ưa thích, đẹp đẽ, trường tồn và có thực chất, khi có thái độ như vậy là nuôi dưỡng trạng thái không thu thúc lục căn.

Và nằm phía dưới lớp tâm mà thiếu chú niệm và hay biết rõ ràng có sự suy tư không chân chánh (ayoniso manasikàra). Suy tư không chân chánh hay chú tâm không đúng, là đi lệch ra ngoài con đường chân chánh, có nghĩa là xem vô thường là thường còn, khổ là hạnh phúc,vô ngã là linh hồn trường cữu, bất thiện xem là thiện hoặc cái đáng nhờm chán là đẹp đẽ tốt xinh. Cuộc lăn trôi lặn hụp mãi mãi triền miên trong vòng luân hồi (samsàra) bắt nguồn từ suy tư không chân chánh. Khi suy tư không chân chánh tăng trưởng, nó đưa đến hai điều: trạng thái không hiểu biết, và lòng tham bám chặt vào kiếp sinh tồn. Vô minh đã hiện hữu, nguồn gốc của toàn khối đau khổ do đó cũng hiện hữu. Vậy, người suy tư nông cạn cũng tựa hồ như chiếc thuyền trôi giạt theo chiều gió, như đàn cừu bị lôi cuốn trong dòng nước lũ, như bò mang ách, mãi mãi xuôi ngược trong vòng luân hồi (samsàra).

Kinh sách cũng dạy rằng một niềm tin không trọn vẹn (assaddiyam) nơi Phật, Pháp, Tăng là điều kiện làm phát triển lối suy tư không chân chánh, và không có niềm tin trọn vẹn nơi Tam Bảo là vì không nghe Giáo Pháp, Dhamma (asaddhammasavanam). Cuối cùng, không nghe Giáo Pháp vì không đến gần bậc thiện trí, không thân cận với hạng người tốt (asappurisasamsevo). Như vậy, thiếu bạn lành (kalyàna mittatà) là lý do làm khởi sanh những tệ hại trên thế gian. Ngược lại, nền tảng và chất dinh dưỡng bồi bổ thiện pháp là tình bằng hữu trong sạch, thân cận với người bạn lành, người cho ta thức ăn làm bằng chất liệu của Giáo Pháp cao thượng, những gì tạo cho ta niềm tin trọn vẹn nơi Tam Bảo — Phật, Pháp, Tăng. Khi có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo ta sẽ có suy tư thâm sâu và chân chánh, có chú niệm và hay biết rõ ràng, có thu thúc lục căn, có thiện nghiệp ở thân, khẩu, ý, có tứ niệm xứ, có thất giác chi, và có trí tuệ đưa đến giải thoát, tuần tự, điều này kế tiếp điều kia. [7]

I- Niệm

Giờ đây ta hãy đề cập đến từng yếu tố một của thất giác chi. Yếu tố đầu tiên là niệm (sati). Ðây là phương tiện hữu hiệu nhất để tự làm chủ lấy mình, và bất luận ai hành pháp này là đã tìm ra con đường đưa đến giải thoát. Niệm có bốn là: niệm thân (kàyànupassanà); niệm thọ (vedanà- nupassanà); niệm tâm (cittànupassanà); và niệm pháp (dhammànupassanà). [8]

Người mà thiếu công trình vô cùng quan trọng này không thể thành tựu việc gì đáng kể. Lời di chúc tối hậu của Ðức Phật ngay vào lúc Nhập Niết Bàn là: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy kiên trì chú niệm để thành đạt giải thoát” (vayadhammà sankhàrà appamàdena sampà-detha). [9] “Hãy kiên trì chú niệm. Ðây là lời khuyên dạy của ta” (sampàdetha appamàdena esà me anusàsanà) là những lời cuối cùng của Ðức A La Hán Sàriputta (Xá Lợi Phất), vị đại đệ tử đứng hàng đầu của Ðức Phật. Ngài nhập diệt trước Ðức Bổn Sư. Trong cả hai trường hợp, Ðức Phật và Ðức Sàriputta đều dùng một danh từ đầy ý nghĩa và tối quan trọng là “appamàda”, có nghĩa là chuyên cần chú niệm, giác tỉnh hay biết, cẩn thận chú tâm.Con người không thể chuyên cần chú niệm nếu không hoàn toàn hay biết những hành động bằng thân, khẩu, hay ý của mình trong lúc thức. Chỉ khi nào giác tỉnh chú niệm và hay biết đầy đủ những hành động của mình con người mới có thể phân biệt điều nào tốt điều nào xấu, đâu là chánh và đâu là tà. Chính trong ánh sáng của chú niệm con người sẽ nhìn thấy hành động của mình là đẹp hay xấu, đúng hay sai.

Trong suốt Tam Tạng kinh điển danh từ “appamàda” luôn luôn được dùng để hàm xúc ý nghĩa “sati”, chú niệm. “Pamàda” được định nghĩa là tâm buông lung, không chú niệm (sati vossagga). Trong bộ Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, Ðức Phật dạy:

“Này chư tỳ khưu, Như Lai không thấy có một pháp nào có nhiền năng lực như sự chuyên cần chú niệm, để làm phát sanh những tư tưởng thiện chưa phát sanh, và làm tan biến những tư tưởng bất thiện đã phát sanh. Với người hằng có chánh niệm, những tư tưởng thiện, nếu chưa phát sanh sẽ phát sanh, và những tư tưởng bất thiện, nếu đã phát sanh sẽ tan biến.”

Trạng thái tâm thường xuyên giác tỉnh và kiên trì tinh tấn là điều kiện thiết yếu để tránh những hành động bất thiện và để thực hiện những thiện nghiệp. Con người luôn luôn chú niệm, luôn luôn thận trọng tự bao trùm quanh mình với tâm giác tỉnh (satimà), con người dũng cảm và quyết tâm trì chí, con người ấy sẽ chạy vượt lên trước như một tuấn mã chạy vượt lên, bỏ lại phía sau đàn ngựa tầm thường, già yếu ốm đau. Tầm quan trọng của chú niệm (sati) trong tất cả mọi hành động của ta được diễn tả một cách rõ ràng và mạnh mẽ trong những lời dạy sau đây của Ðức Thế Tôn:

“Niệm, này chư tỳ khưu, Như Lai tuyên bố, niệm là yếu tố tối cần thiết trong mọi việc, bất luận nơi nào. Nó giống như muối trong cà ry” “Satim ca kho aham bhikkhave sabbatthikam vadàmi. Sabba byanjanepi lonadù- panam viya icchitabbà.” [10]

Ðời sống của Ðức Phật là hình ảnh cụ thể của chú niệm. Ngài là Sadà sato, luôn luôn giác tỉnh, luôn luôn giữ chánh niệm. Không bao giờ có một trường hợp nào cho thấy Ðức Phật tỏ ra dấu hiệu dã dượi tinh thần, uể oải tâm trí hay tâm bất tại. Ta hãy bước theo dấu chân của Ngài và hãy giác tỉnh chú niệm. Chúng ta hãy loại trừ tâm và những tâm sở chai đá dửng dưng và nhận thấy rằng dã dượi và hôn trầm không cầm giữ, cản ngăn ta thực hiện những sinh hoạt thiện; bởi vì đây là con đường vững chắc đưa đến trạng thái bất diệt, hạnh phúc và giải thoát.

Nói theo một lối, chánh niệm quý hơn kiến thức, bởi vì trong khi tâm không chú niệm, ắt không thể xử dụng hữu hiệu kiến thức của mình. Dầu có hiểu biết mà không chú tâm vào việc làm thì kiến thức cũng không giúp được gì. Một tâm trí thông minh sáng suốt mà không chú niệm thường dẫn dắt con người đi sai đường lạc nẻo và quyến rũ con người bước ra khỏi con đường chân chánh. Chí đến những người đầy đủ kiến thức và trí não minh mẫn cũng không thấy được sự vật một cách chân chánh trong giây phút dể duôi để tâm buông lung, trong khoảnh khắc không nắm vững công hạnh vô cùng quan trọng của chú niệm. Có nhiều người quyền quý cao sang phải bị chỉ trích nghiêm khắc mà không thể chối cãi được chỉ vì hành động vô ý thức, hay có những lời nói bất cẩn trong lúc không chú tâm đến hậu quả của nó. Chú niệm là đặc tánh chánh yếu của tất cả những hành động thiện có chiều hướng đem lại lợi ích to lớn cho ta và cho kẻ khác. “Appamàdo mahato atthàya samvattati” “Chú niệm dẫn đến lợi ích to lớn” [11], tức là phát triển tâm đến mức cao nhất, và đó là con đường mà ta phải trải qua để thoát ra khỏi mọi đau khổ của vòng luân hồi.” “Người thích thú trong hạnh chuyên cần giữ chánh niệm và nhìn phóng dật với tâm sợ hải không còn phải rơi trở xuống. Vị ấy đã đối diện với Niết Bàn.” [12]

II- Trạch pháp

Yếu tố thứ nhì của thất giác chi là dhammavicaya, trạch pháp, hay nhiệt thành khảo sát Giáo Pháp.

Trạch pháp là kiến thức sâu sắc và có tánh cách phân tách đến chi tiết để thấu đạt trọn vẹn thực chất của tất cả các pháp hữu vi, vô tri vô giác hay hữu giác hữu tri, người hay chư thiên. Ðó là thấy đúng thực tướng của sự vật, thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó. Trạch pháp là phân tách tất cả các pháp hữu vi một cách rốt ráo, đến những nguyên tố căn bản, phân tách chí đến cùng tột. Do nhờ nhiệt thành khảo sát như vậy mà ta có thể nhận thức rằng tất cả các pháp hữu vi đều phải trải qua những giai đoạn sanh, trụ, diệt (uppàda, thiti và bhanga) một cách vô cùng nhanh chóng, đến độ khó thể quan niệm được. Ðây là những giai đoạn khởi sanh, phát triển đến tột độ, rồi chấm dứt, cũng như nước trong một dòng sông, lên cao đến tột độ rồi ròng trở xuống. Toàn thể vũ trụ đều liên tục biến đổi, không thể tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp.

Trong thực tế, mọi sự vật đều phải có duyên, nhân và quả (paccaya, hetu và phala). Khi chánh niệm, suy tư chánh đáng (yoniso manasikàra) tự nhiên đến và thúc đẩy hành giả phân biện, lý luận và khảo sát. Suy tư nông cạn, tư tưởng không chánh đáng (ayoniso-manasikàra) làm cho tâm trí nhơ đụt và do đó, không thể khảo sát bản chất của sự vật. Người như vậy không thể thấy nhân và quả, hột và trái, trạng thái phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vi. Ðức Phật dạy: Pannavantassàyam dhammo nàyam dhammo dup-pannassa. “Giáo Pháp này để cho bậc cao minh chớ không phải để cho người thiển trí.” [13]

Trong Phật Giáo không có sự áp bức hay cưỡng chế. Phật Giáo không đòi hỏi tín đồ một đức tin mù quáng. Ngay từ lúc đầu, người có tâm hoài nghi lấy làm thỏa thích mà nghe lời kêu gọi nên khảo sát, suy xét tận tường trước khi chấp nhận. Toàn thể giáo lý của Ðức Phật, từ đầu đến cuối, được trình bày cho tất cả những ai có mắt muốn thấy và có tâm trí muốn thấu hiểu. Ðức Phật dẫn dắt chư môn đệ theo phương pháp phân biện và sáng suốt khảo sát. Ðối với người Kàlàmas muốn tìm hiểu, Ðức Phật dạy: “Hoài nghi là đúng, nêu lên những câu hỏi về những gì còn hoài nghi và những gì ta chưa hiểu rõ là hữu lý. Về một vấn đề, khi còn hoài nghi ắt có sự phân vân phát sanh” (xem Chương 5, Tự do khảo sát)

Người tìm chân lý không thỏa mãn với một kiến thức nông cạn chỉ thấy trên bề mặt. Người ấy lặn sâu và nhìn những gì ở phía dưới. Ðó là loại tìm hiểu mà Phật Giáo khuyến khích. Loại hiểu biết đưa đến chánh kiến.

Người trau giồi trạch pháp, dhammavicaya, tập trung chú niệm vào ngũ uẩn thủ (pancakkhandha) và gia công nhận thức trạng thái sanh diệt (udayabbaya) của sự cấu hợp những năng lực này (suddha sankhàra punja) — luồng trôi chảy của danh và sắc này (nàma-rùpa). Chí đến khi nhận thức đầy đủ bản chất vô thường của danh và sắc của chính mình người ấy mới chứng nghiệm được hạnh phúc, phỉ lạc. Do đó có câu:

Yato yato sammasati – khandhànam udayabbayam
Labhati pìti pàmojjam – amatam tam vijànatam.

“Mỗi khi suy niệm về sự sanh-diệt của các uẩn, người kia có phỉ lạc.
Ðối với người thấu hiểu, (suy niệm ấy) là bất tử, Niết Bàn.”
[14]

Những gì vô thường, bất ổn định, người ấy thấy là khổ. Những gì vô thường và khổ, người ấy nhận thức là vô ngã, không có một linh hồn trường tồn bất biến, không có một tự ngã, một thực thể vĩnh cửu gọi là “ta”. Chính sự nắm vững, sự thấu đạt trọn vẹn, sự chứng ngộ ba đặc tướng: Vô thường, khổ, vô ngã (anicca, dukkha và anattà) ấy được gọi là tuệ minh sát (vipassanà nàna). Và sự chứng đạt này dường như lưỡi dao cạo, cạo sạch tất cả những khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm (anusaya) và cùng lúc, cạo sạch những mầm mống tạo khổ. Người ấy đã lên đến tuyệt đỉnh cao của sự chứng ngộ, người ấy là một vị A La Hán, đấng Trọn Lành, người đã có cái nhìn rõ ràng, có trí tuệ sâu sắc, có sự hiểu biết thấm sâu vào các thâm cung bí hiểm của đời sống, và nhận thức trọn vẹn bản chất thật sự của vạn pháp, vốn bị vùi lấp dưới lớp mặt bề ngoài. Người ấy đúng thật là triết gia, là khoa học gia thật sự, đã nắm vững ý nghĩa của đời sống một cách đầy đủ. Người ấy đã đứng vững trên hai chân mình và không còn bị lạc thú phù du làm mê hoặc. Người ấy không còn bị những lớp mặt bề ngoài làm bận lòng. Người ấy không còn có thể ôm ấp một quan điểm mù mờ về các hiện tượng; bởi vì đã vượt lên khỏi mọi lầm lạc do nhờ tuệ minh sát sâu sắc, và chỉ tuệ minh sát (vipassanà-nàna) sâu sắc mới có thể đem lại quan kiến toàn hảo, không thể lầm lạc.

III- Tinh tấn

Yếu tố thứ ba của sự giác ngộ là tinh tấn (viriya). Tinh tấn là một tâm sở (cetasika) mà cũng là chi thứ sáu của Bát Chánh Ðạo, được gọi là chánh tinh tấn (sammà-vàyàma).

Phật Giáo để cho người thành thật nhiệt tâm, người dũng mãnh, quyết tâm thành đạt mục tiêu chớ không phải để cho người dã dượi lười biếng (àraddhaviriyassàyam dhammo nàyam dhammo kusìtassa) [15]. Ðức Phật không tự xưng là một đấng cứu thế có khả năng và sẵn sàng lãnh chịu tội lỗi của nhân loại. Trái lại, Ngài dạy rằng mỗi người phải mang lấy gánh nặng những hành động bất thiện của mình. Theo đúng lời của chính Ðức Phật, mỗi cá nhân phải tự mình cố gắng, tự mình chuyên cần tinh tấn đầy đủ mức độ cần thiết, và tự mình thăng tiến trên đường giải thoát. Ðức Phật chỉ là người “Vạch Ra Con Ðường”. Một cách gián tiếp người khác có thể hướng đến ta một cánh tay hỗ trợ, nhưng muốn thoát ra khỏi mọi khổ đau của đời sống mỗi người phải tự đặt mình lên hòn đe rồi tự đập, vỗ, uốn nắn mình bằng hành động của chính mình. “Hãy tự lấy con làm hải đảo cho con, hãy lấy con làm nương tựa cho con.” [16] Như thế ấy, Ðức Bổn Sư kêu gọi hàng tín đồ không nên ỷ lại nơi ai khác ngoài mình. Bất luận ở vào trường hợp nào, người bước theo dấu chân của Ðức Thế Tôn không nên mất niềm hy vọng và ngừng cố gắng; Ðức Phật không bao giờ thối chí, Ngài luôn luôn dũng mãnh và tinh tấn, chẳng những trong kiếp sống cuối cùng mà trong nhiều kiếp, từ thời còn là Bồ Tát. Vào lúc còn là người có nguyện vọng trở thành Phật, phương châm của ngài là: mà nivattha, abhikkhama, “không chùng bước, luôn luôn thẳng tiến”. Người có chánh niệm và có trau giồi trạch pháp nên tiến thêm một bước, tinh tấn chuyên cần, nỗ lực đúng mức cần thiết để vượt lên, chiến đấu mở lối thoát. Nhiệm vụ của tinh tấn có bốn là:

1.Tinh tấn tận diệt những bất thiện pháp đã phát sanh trong tâm;
2.Tinh tấn đè nén, ngăn ngừa không để cho bất thiện pháp phát sanh;
3.Tinh tấn trau giồi những thiện pháp đã phát sanh;
4.Tinh tấn duy trì và làm cho các thiện pháp đã phát sanh càng thêm dồi dào phát triển. (samvara, pahàna, bhàvana, anurakkhana.) [17].

Kinh Vitakka Santhàna Sutta của bộ Majjhima Nikàya, Trung A Hàm có ghi:

“Cũng như người thợ mộc chuyên nghiệp hay người tập sự dùng một cái chốt nhỏ để lói ra một cái chốt lớn hơn, cùng thế ấy, khi có một ý nghĩ phát sanh đến thầy tỳ khưu mà có tánh cách bất thiện, xấu, nghĩa là liên hợp với tham, sân, si, thầy phải tạo trong tâm một ý nghĩ liên hợp với thiện pháp. Do đó những bất thiện pháp sẽ biến tan và cùng với sự tan biến của bất thiện pháp, tâm của thầy tỳ khưu trở nên ổn cố, trong sạch, an trụ và định.” [18]

Như vậy người lười biếng ắt không thể đi trên con đường trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo). Người có nguyện vọng thành đạt giác ngộ (bodhi) phải tự un đúc cho mình một ý chí dũng mãnh cùng với hạnh tinh tấn không thối chuyển. Giác ngộ và giải thoát nằm trọn vẹn và tuyệt đối trong tay của chính ta. “Chính con người phải tự mình quyết định kiên trì nỗ lực, vươn lên và mở đường đến tận cánh cổng đưa vào tự do. Và bất luận lúc nào, con người luôn luôn có đủ khả năng để làm việc ấy. Cánh cổng không bao giờ khóa chắc lại, chìa khóa cũng không nằm trong tay ai khác mà ta phải van vái nguyện cầu để được ban bố. Cánh cửa không bao giờ gài, đóng, hay khóa, trừ phi chính con người đã gài, đóng và khóa nó lại.”

Bằng những lời vàng ngọc và bằng gương lành trong sáng, Ðức Phật đã biểu hiện một đời sống chuyên cần tinh tấn tột độ. Hãy lắng nghe lời dạy của Ngài:

“Người sống tiêu cực, uể oải dã dượi, không tinh tấn chuyên cần, dầu còn trẻ tuổi và khoẻ mạnh vẫn lười biếng và suy nhược, thiếu quyết tâm, con người lười biếng ấy không tìm ra được con đường dẫn đến trí tuệ, đường đến giác ngộ.” [19]

Bước theo dấu chân của Ðức Phật, người Phật tử tự nghĩ: “Dầu chỉ còn da, gân và xương, máu và thịt đã khô dần và tàn héo, ta sẽ không bỏ dỡ cuộc chiến và bước lệch ra ngoài con đường trực tiến, thẳng đến giác ngộ.” (xem Chương 4, Chánh Tinh Tấn)

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app