Chương 9
Bản thể của Tái sanh
(Patisandhi)
Sau khi sự chết xảy ra theo tiến trình được nêu ra nơi Chương 8 vừa qua, thì tâm thức (citta), các tâm sở (cetasikas) và sắc uẩn (rupas) khởi lên lần đầu tiên trong hiện hữu mới, theo đúng với nghiệp lực (kamma).Tâm thức, các tâm sở và sắc uẩn khởi lên lần đầu đó được gọi là Patisandhi, tạm dịch là Tái sanh. Patisandhi có nghiã là sự liên hệ khởi tiếp theo sau sự chấm dứt của hiện hữu cũ.
286.- Bốn loại Tái sanh (Patisandhi).
Vì tâm thức, các tâm sở và sắc uẩn (citta, cetasikas, rupa) khởi lên vào lúc tái sanh (patisandhi), đều là hậu quả của nghiệp lực (kamma), cho nên tùy theo các loại nghiệp tốt xấu mà phân biệt ra thành bốn loại tái sanh. Bốn loại tái sanh là:
– hoá sanh (Opapatika patisandhi);
– thấp sanh (Sansedaja patisandhi);
– noãn sanh (Andaja patisandhi);
– thai sanh (Jalabuja patisandhi).
(Kinh sách Bắc tông thường gọi bốn loại tắi sanh đó là tứ sanh.).
287.- (1) Hoá sanh, có đủ thân tâm ngay lúc tái sanh. (Opapatika patisandhi).
Chư Thiên (Deva), chư Phạm thiên (Brahma), tội nhơn nơi điạ ngục, ngả quỉ (peta) và phi thiên hay a tu la (asurakaya), khi tái sanh, liền có đầy đủ thân tâm của kẻ trưởng thành, mà chẳng phải trải qua các giai đoạn trong bào thai và thời kỳ thiếu nhi. Họ chẳng sanh ra từ trong bụng mẹ. Khi tâm thức, các tâm sở và sắc uẩn khởi lên, họ liền hiện đến các trú sở của họ, như nơi các cung điện trên Trời, các rừng già, núi non, sông biển, với đầy đủ vóc dáng bình thường của họ. Tổ tiên sơ khởi của loài người cũng sanh ra dưới hình thức loại tái sanh nầy, khi vũ trụ bắt đầu ở kiếp ba (kappa) thành lập. Họ mang lấy hình thể con người một cáchđột ngột, bất thình lình, chẳng phải nhập vào thai mẹ trong tử cung. Đây là loại tái sanh được gọi là hoá sanh(Opapatika patisandhi).
288.- (2) Thấp sanh, sanh ra từ nơi ẩm ướt (Sansedaja patisandhi).
Vài hạng chúng sanh tái sanh tại những nơi mà thai nhi có thể bám vào để phát triển được. Những chúng sanh loại nầy khởi đầu lớn lên từ những mô dạng bé tí ti. Dòi bọ nở ra và lớn lên giữa những chất hữu cơ hư thối. Hoàng hậu Padumavati tượng hình trong một đoá hoa sen. Hoàng hậu Veluvati sanh trong một đốt tre. Cincamanavika, người đàn bà đã vu khống Đức Phật Thích-ca, phải tái sanh trong một thân cây me. Hầu hết các loại côn trùng đều tái sanh theo loại thấp sanh (Sansedaja patisandhi) nầy, nhưng loài người cũng có nhiều kẻ cũng theo lối thấp sanh, như trường hợp các người vừa được kể trên.
289.- (3) Noãn sanh, sanh ra từ trứng (Andaja patisandhi).
Các loài chim chóc, sanh ra từ trứng tượng hình trong bụng mẹ, thuộc vào loài noãn sanh (Andaja patisandhi) [noãn = trứng]. Trong Quyển Jataka, (Tiền kiếp của Đức Phật) [là Quyển thứ 10 trong Tiểu Bộ Kinh, Khuddhaka Nikaya], ta thấy có vài người nam kết hôn với phụ nữ loài Rồng rắn (Naga) đẻ trứng nở ra con người.
290.- (4) Thai sanh, sanh từ trong tử cung mẹ (Jalabuja patisandhi).
Hạng thai sanh bao gồm loài người và thú vật loài có vú, đều sanh ra từ bào thai trong tử cung của mẹ. Các vị thổ thần (bhumma deva) [=thần đất] và các thọ thần (rukkha deva) [=thần cây cối] cũng từ thai sanh mà ra.
Hai loại noãn sanh và thai sanh được gọi chung bằng danh từ Gabbha seyyaka (Gabbha = ở trong tử cung của mẹ + seyyaka = kẻ nằm), tạm dịch là ngoạ sanh [ngoạ = nằm].
291.- Ba điều kiện của việc tái sanh (patisandhi).
Các chúng sanh thuộc loại thấp sanh (sansedaja patisandhi) và hoá sanh (opapatika patisandhi) chẳng có cha mẹ; họ sanh ra do sức mạnh của nghiệp lực (kamma) của riêng họ. Đối với những kẻ ngoạ sanh (gabbhaseyyaka) đã sanh ra từ trong tử cung của mẹ, vấn đề đặt ra là: ‘Việc thọ thai đã xảy ra như thế nào?’’
Có ba điều kiện cần thiết cho việc thọ thai. Đó là: (1) người mẹ phải vừa mới có kinh nguyệt; (2) phải có sự giao cấu; (3) đứa con phải đã chết trong đời qua rồi. Sự thọ thai xảy ra trong vòng từ bảy đến mười lăm ngày sau khi cha mẹ đã giao cấu.
292.- Vài trường hợp khác thường.
Trong một vài trường hợp khác thường, chẳng có sự giao cấu giữa cha mẹ mà vẫn có sự thọ thai. Bồ-tát Suvannasama nhập vào tử cung của mẹ khi cha của Ngài sờ vào rún của mẹ Ngài, ngay sau khi bà vừa có kinh nguyệt. Mẹ của Vua Candapajjota cảm thấy nhục dục bị kích thích vào lúc một con rít bò ngang qua bụng bà khi bà vừa có kinh nguyệt xong và sau đó bà liền mang thai. Loài cò, vạc nơi đầm lầy thích hứng gió nồm thổi đến và mang thai. Vào thời Đức Phật Thích-ca còn tại thế, một vị tỳ-kheo ni (bhikkhuni) mang thai vì đã uống phải tinh trùng dính trên áo của người chồng cũ. Một con hoẵng cái, uống nhằm nước tiểu có chứa tinh trùng của một người ẩn sĩ, thọ thai và sanh ra một người con trai tên là Isisinga. Đấy là những trường hợp mang thai khác thường.
293.- Chất tinh thủy Kalala.
Trong việc thai sanh, cùng một lúc với tâm thức và các tâm sở khởi lên lần đầu tiên, có sự xuất hiện của một chất lỏng, trong suốt, vốn là kết tinh của nghiệp lực, được gọi là kalala, tạm dịch là tinh thuỷ. Chất lỏng trong suốt nầy có hình dáng như một giọt dầu nhỏ li ti dính trên mái tóc một cô thiếu nữ ở Bắc Câu lư châu. Chất tinh thuỷ kalala là giai đoạn thành hình đầu tiên của thai nhi, do sức nghiệp lực của đời quá khứ tạo ra. Chất tinh thủy đó chẳng phải là tinh trùng của người cha, mà cũng chẳng phải phôi châu {= trứng trong tử cung] của người mẹ. Cả hai, tinh trùng và phôi châu, chỉ đóng vai trò trợ giúp cho chất tinh thủy kalala phát triển mà thôi.
294.- Sự yểm trợ của tinh trùng và phôi châu.
Giọt tinh thủy kalala vốn do các nghiệp lực của các hành động đã qua trong đời sống trước của đứa bé kết thành, và nhờ nương vào tinh trùng của cha và phôi châu của mẹ khiến cho sự thọ thai được xảy ra. Giọt tinh thủy kalala cũng tựa như hạt giống; tinh trùng của cha và phôi châu của mẹ cũng như đất ẩm ướt; và nghiệp lực cũ cũng như người nông phu. Bởi thế cho nên, một phôi châu trong sạch và một tinh trùng khoẻ mạnh rất cần thiết cho sự thọ thai. Bằng không, thai nhi chẳng thể phát triển thành một hài nhi cứng cápđược.
Loài bò sát, nhứt là loại kỳ đà, sống trong hang đất đỏ, mang thân hình màu đỏ; loài nào sống trong hang đất đen, có màu đen. Cùng thế ấy, một đứa bé thừa hưởng các đặc tánh di truyền của cha mẹ xuyên qua tinh trùng và phôi châu đã làm nơi nương tựa cho thai nhi phát triển đầy đủ; và do đó mà con cái mới giống cha mẹ. Ngay phần tâm linh và tánh tình, kể cả trí thông minh, cũng được truyền thọ sang cho con.
Sự kiện con cái sở dĩ giống theo cha mẹ là do sự chuyển đạt của các yếu tố di truyền xảy ra trong thời kỳ thai nhi còn trong bụng mẹ. Đến khi lớn lên trong môi trường gia đình, đứa trẻ bắt chước theo thái độ, tâm trạng và lề lối sanh sống của cha mẹ. Bởi thế cho nên, con cái các gia đình đàng hoàng và đức hạnh đều ngoan ngoãn; còn những người con vô hạnh, bỉ ổi thường thấy nơi các gia đình hèn mạt. Cả cha lẫn mẹ có là người dòng dõi đức hạnh thì mới sanh được đứa con xứng đáng. Giọt tinh thủy kalala nếu được gieo trồng nơi mảnh đất tinh trùng và phôi châu lành mạnh sẽ tạo nên đứa con kháu khỉnh.
295*.- Bốn loại phàm phu (puggala) và tám bực thánh hiền (ariya).
[Danh từ Pali Hetu có nghiã là căn nguyên, nguồn gốc làm phát sanh ra thiện nghiệp hay ác nghiệp. Có ba thiện căn: vô tham (alobha), vô sân (adosa) và vô si (amoha) đưa đến cõi lành khi tái sanh. Có ba ác căn: tham (lobha), sân (dosa) và si (moha) đưa đến cõi dữ khi tái sanh. Dựa theo số thiện căn hay ác căn khởi lên trong tâm thức lúc tái sanh, (patisandhi) ta có thể phân biệt bốn loại phàm phu (puggala) và tám bực thánh hiền (ariya) trong các hàng chúng sanh.Phàm phu có bốn hạng, vướng phải các ác căn; còn nơi các bực thánh hiền thì chia ra tám cấp tuỳ mức độ thiện căn được phát triển. Sau đây xin xét qua bốn hạng phàm phu trước.]
[Tiểu mục 295* nầy do Thiện Nhựt mạn phép viết thêm vào cho dễ hiểu các đoạn sau, xin quí vị độc giả lưu ý và dè dặt].
296.- (1) Phàm phu vô thiện căn ở cõi dữ (Duggati Ahetuka Puggala).
Hạng phàm phu Duggati Ahetuka Puggala, tạm dịch là hạng vô thiện căn ở cõi dữ là hạng chúng sanh bị đoạ vào cõi dữ như cõi điạ ngục (apaya), vì tâm thức khi tái sanh (patisandhi) khởi lên chẳng có những căn lành như vô tham (alobha), vô sân (adosa) và vô si (amoha). [Duggati = cõi dữ; Ahetuka = chẳng có thiện căn; Puggala = cá nhơn, phàm phu].
297.- (2) Phàm phu vô thiện căn ở cõi lành (Sugati Ahetuka Puggala).
Hạng chúng sanh vô thiện căn (Ahetuka) nầy được sanh nơi cõi người và cõi trời là những cõi lành, nhưng phải chịu nhiều cảnh khổ trong cuộc sống.
a- Nơi cõi nhơn gian, đó là những người tàn tật: mù, câm, điếc, ngốc. Một số lại chẳng có bộ phận sinh dục hoặc là bán nam, bán nữ.
b- Trên cõi Trời, các kẻ vô thiện căn là những thiên chúng (devas) chẳng có đủ sức thần thông và phải sống gá dựa vào các cung điện lộng lẫy. Đó là những hạng thổ thần (bhumma deva) và thọ thần (rukkha deva) đã phải dùng đến các thực phẩm bị quẳng đi để nuôi mạng sống, hay hưởng các lễ vật của kẻ cầu khẩn họ đừng làm dữ. Các thiên chúng nầy, mặc dầu được tái sanh vào cõi Tứ thiên vương (Catummaharajika) trên Trời, nhưng phải chịu cảnh khổ. Dầu sao cũng có một số đã cố gắng tu luyện và chứng đắc được Đạo (Magga) và Quả (phala) vào thời Đức Phật Thích-ca còn tại thế.
298.- (3) Hạng thiện nhị căn (Dvihetuka Puggala).
Nơi mục nói về Bố thí (Dana) thuộc Chương 6, tại các tiểu mục 183 và kế tiếp, chúng ta có tìm hiểu thật chi tiết thế nào là các hành vi thiện nhị căn thấp (dvihetuka ukkattha kusala), các hành vi thiện tam căn cao (tihetuka omaka kusala) Nhiều chúng sanh được tái sanh vào cõi người và cõi Trời, nhờ ở những thiện pháp mà họ đã làm trong kiếp trước. Nhưng vì khi thực hiện các công đức đó, tâm thức họ chẳng khởi lên các tâm sở vô si (amoha), hoặc có khởi lên, nhưng chẳng được tâm sở ý hành (cetana cetasika) theo phụ trợ mạnh, (như khi bố thí xong họ lại hối tiếc), cho nên đến khi tái sanh, tâm thức họ chỉ có được hai thiện căn, vô tham và vô sân khởi lên mà thôi. Vì lẽ đó họ tái sanh vào cõi lành nhưng được gọi là hạng phàm phu thiện nhị căn (Dvihetuka).
Hai hạng vô thiện căn (Ahetuka Puggala) ở cõi lành và cõi dữ nêu ra ở trước và hạng thiện nhị căn nầy (Dvihetuka Puggala) vì tâm thức lúc tái sanh (patisandhi) quá yếu kém, nên trong kiếp nầy họ chẳng có đủ cơ duyên để chứng đắc được Thiền định (Jhana), Đạo (Magga) và Quả (Phala). Nhưng nếu ngay đây, họ biết nỗ lực quán tưởng (bhasvana) rồi nhờ công phu tu tập đó mà đời sau họ sẽ chứng đắc được Thiền định, Đạo và Quả.
299.- (4) Hạng thiện tam căn (Tihetuka Puggala).
Nhờ ở tâm thức thiện tam căn thấp (tihetuka ukkattha kusala citta) (đã được giải thích trong khi bàn về Bố thí), chúng sanh được tái sanh vào nhàn cảnh ở cõi người hay cõi Trời. Đó là hạng thiện tam căn [có đủ ba tâm thức vô tham, vô sân và vô si], có trí thông minh của người hiền đức và có thể tu tập để chứng đắc đuợc Thiền định, Đạo và Quả ngay trong đời nầy, nếu hướng theo các hạnh Ba-la-mật (Paramis). Thời buổi ngày nay, ta vẫn thấy có nhiều người thuộc bực thiện tam căn. Chỉ có sự lười biếng và thiếu kỷ luật mới ngăn trở họ trong việc trở thành các bực Thánh hiền (Ariyas) mà thôi.
Như thế, ta thấy, do vì tâm thức lúc tái sanh (patisandhi citta) khác nhau giữa các chúng sanh, mà có sự phân biệt bốn hạng Puggalas [=phàm phu, hay cá nhơn]: Duggati Ahetuka, Sugati Ahetuka, Dvihetuka và Tihetuka. { tức là hai hạng vô thiện căn (Ahetuka) ở hai cõi lành, dữ; và hai hạng thiện nhị căn và thiện tam căn (Dvihetuka và Tihetuka)].
300.- Tám bực hiền thánh (Ariyas).
Hạng người Tihetuka, thiện tam căn, [trong tâm thức thường khởi lên cac tâm sở vô tham, vô sân và vô si]nếu ra công tu tậpquán tưởng(bhavana), sẽ lần lượt chứng được đạo (magga) và quả (phala) của các ngôi vị hiền thánh như sau:
1) Tu-đà-huờn hướng (Sotapatti maggattha) [= theo đúng hướng đạo Tu-đà-huờn]
2) Tu-đà-huờn quả (Sotapatti phala) [= khi chứng được quả vị Tu-đà-huờn];
3) Tư đà hàm hướng (Sakadagami magga);
4) Tư đà hàm quả (Sakadagami phala);
5) A na hàm hướng (Anagami magga;
6) A na hàm quả (Anagami phala);
7) A-la-hán hướng (Arahatta magga);
8) A-la-hán quả (Arahatta phala)
Chứng được bực thứ tám là đắc được ngôi vị A-la-hán (Arahant). Các vị Bích chi Phật và các Đức Phật đều là những bực A-la-hán đã đạt đến trí huệ (nana) thù thắng.
301.- Nghiệp lực mới thật là cha mẹ sanh ra chúng ta.
Chính hành vi riêng của một người mới ấn định tâm trạng lúc tái sanh (patisandhi citta) của người ấy và do đó mới quyết định đến thân phận của y. Nghiệp lực (kamma) xác định cuộc sống tương lai chẳng những khác biệt ở mỗi người nơi tâm trạng lúc tái sanh (patisandhi) vào buổi đầu của cuộc sống mới, mà còn ảnh hưởng sâu đậm về hình dong thân tướng, về dòng dõi thân tộc, về điạ vị giàu nghèo, v.v. Hãy so sánh trường hợp của hai người, một người làm thật nhiều hành vi công đức thiện lành, còn một người thì không, thảng hoặc có làm, cũng làm miễn cưỡng. Đến khi lià đời và tái sanh trở lại cõi nhơn gian, người trước được nhập vào tử cung người đàn bà biết dưỡng thai thận trọng; còn người sau lại sanh vào bụng một người mẹ chẳng hiểu rành phương cách săn sóc thai nhi. Như thế ngay cả trong thời kỳ còn hoài thai, đã có sự khác biệt lớn. Đến khi được sanh ra, người trước chào đời trong tiện nghi đầy đủ, còn người kia đã ra khỏi bụng mẹ với nhiều khó khăn và đau đớn. Sau khi hạ sanh, sự khác biệt giữa hai người lại càng thêm rõ rệt. Cùng với thời gian, một trẻ được nâng niu, dạy dỗ thành người có học thức, một trẻ bị hất hủi trong cảnh thiếu thốn, nghèo nàn và thất học. Tóm lại, người trước sống một cuộc đời thật êm ấm, sang trọng được ông bà săn sóc và thân bằng quyến thuộc thương yêu, còn người sau phải chật vật, khổ sở lắm mới được sống còn.
Tạm kết về Chương 9
Như đã trình bày qua, nghiệp lực (kamma), đã tạo nên trong quá khứ, có ảnh hưởng lớn lao đến vận mạng của con người, ngay từ lúc mới sanh. Nay đã biết các hậu quả khác nhau của nghiệp lực, ta chớ vội đi chê trách các người đã ưu đãi những kẻ giàu sang và có quyền thế. Hạnh phước vẫn thường tìm đến viếng nơi phú quí. Cho nên, ta chỉ nên tự trách lấy mình về sự si mê và thiếu sót trong các hành vi bất thiện, rồi cố gắng đem hết tâm lực phấn đấu để trở hành con người đức hạnh và thạnh đạt, theo đúng các thiện nghiệp đạo.
Ganh tị và đố kỵ tranh với kẻ thiện xảo mà chẳng tự mình biết phấn đấu, chỉ là một sự ngu khờ vô tích sự. Hai tâm sở bất thiện đó chỉ kéo ta xuống bùn lầy của tội lỗi và đẩy ta vào ác đạo trong các đời sau.
Nguyện cầu tất cả các độc giả quyển sách nầy, cùng các thân hữu và cộng tác viên của tôi, bắt đầu ngay từ giờ phút nầy, việc thi hành các thiện pháp để được tái sanh luôn luôn vào cảnh an lành, trên con đường dẫn tới Niết-bàn (Nibbana).
-ooOoo-