Nội Dung Chính
Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng Thứ Nhất Mingun Sayadaw U Vicittasārābhivaṃsa Mahāthera (1911-1995)
Tipiṭakadhara, DhammaBhaṇḍāgārika, Mahatipitakakovida,
Agga Mahāpaṇḍita, Abhidhaja Mahāraṭṭhaguru
Từ năm lên 13 tuổi, Ngài luôn luôn vượt qua các cuộc khảo thí về Phật Pháp một cách suất sắc. Đơn cử một vài ví dụ: Năm Ngài được 4 hạ tỳ khưu, Ngài thi đỗ kỳ thi về Pháp hành (Dhammacariya) do hội Pariyatti sāsanahita của Mandalay tổ chức. Đó là kỳ thi rất khó, chỉ có một ít thí sinh tham dự. Cuộc thi ấy nhằm vào 3 bộ Đại chú giải mà thí sinh phải hoàn thành trong 3 năm. Nhưng tác giả đã vượt qua cả 3 bộ Chú giải chỉ trong một năm và được phong danh hiệu Pariyatti Sāsanahita Dhammacariya Vataṃsikā. Tuy nhiên, lần đầu tiên Ngài thực sự được nổi danh Nhà Uyên Bác là khi Ngài vượt qua kỳ thi Tipitakadhara, được tổ chức lần đầu tiên và cũng được xem là kỳ thi khó nhất và lâu nhất. Đúng như cái tên Tipitakadhara được đặt cho kỳ thi, thí sinh phải tụng nằm lòng hết 3 tạng kinh điển. Hơn nữa, thí sinh phải vượt qua kỳ thi viết hết thảy Tam tạng và Chú giải. Ngài đã trải qua suốt 4 năm đằng đẵng để tham dự khóa thi và cuối cùng, năm 1953 Ngài nhận được danh hiệu độc nhất Tipitakadhara Dhammabhandāgārika, nghĩa là “Người mang trong mình Tam tạng Pháp Bảo và Người giữ kho Chánh Pháp.” Khả năng tụng đọc 16.000 trang kinh điển của Ngài Đại Trưởng Lão Mingun đã được đưa vào cuốn sách Guiness của năm 1985.
Một Số Tác Phẩm Tiêu Biểu:
.
.
Tiểu Sử Ngài Mingun Sayadaw U Vicittasarabhivamsa
The Most Venerable Sayadaw U Vicittasarabhivamsa
“Tipitakadhara, Dhammabhandagarika, Agga Mahapandita, Abhidhaja Maharatthaguru”
Written by Maung Maung Lay (Sorbonne)
Do Maung Maung Lay (Sorbonne) viết
(‘The Light of Dhamma’,Vol. 1, No. 3, 1981)
The most Venerable Sayadaw U Vicittasarabivamsa, Secretary of the State Sangha Maha Nayaka Committee, was born at Kyipin Village in Myingyan Township on Wednesday the 11th Waxing day of Tazaungmon, 1273 B.E. (1-11-1911 A.D.) His parents were U Sone, a Head man of the village and Daw Sin. He is the second son of their three children. He was named Maung Khin.
Ngài Trưởng Lão Đáng Kính Bậc Nhất Sayadaw U Vicittasarabivamsa, Thư ký Ủy ban Tăng già Cộng đồng Maha Nayaka, sinh tại Làng Kyipin ở Thị trấn Myingyan vào thứ Tư ngày Waxing thứ 11 của Tazaungmon, năm 1273 TCN (1-11-1911 SCN). Cha mẹ ông là U Sone, một người đứng đầu làng và Daw Sin. Ông là con trai thứ hai trong gia đình ba người con. Ông từng tên là Maung Khin.
During his boyhood his character was exceptional. He did not join his companions in playing vulgar games. He used to have a life of cleanliness, and eat food only allowed by his parents.
Trong thời thơ ấu của mình, tính cách của ông rất đặc biệt. Ông không cùng bạn bè chơi những trò chơi tầm thường. Ông từng có một cuộc sống trong sạch, chỉ ăn những thức ăn được cha mẹ cho phép.
His father died at the age of 30, when he was 4. If he had lived long, he would have seen his son as the first Tipitakadhara title holder.
Cha của ông qua đời ở tuổi 30, khi ông mới 4 tuổi. Nếu cha ông còn sống lâu, ông ấy đã có thể thấy con trai mình là người giữ danh hiệu Tipitakadhara – Tam Tạng Pháp Sư đầu tiên.
When he attained 5 years, his mother Daw Sin, sent him to the village monastery in order to get basic monastic education. The presiding Sayadaw of the monastery was U Sasana who was educated from the Nan U Monastery in Mandalay.
Khi ông lên 5 tuổi, mẹ ông Daw Sin, đã gửi ông đến tu viện trong làng để được học các kiến thức tu viện cơ bản. Ngài Sayadaw chủ trì tu viện khi đó là U Sasana, người từng học tập từ Tu viện Nan U ở Mandalay.
There, the Venerable Sayadaw U Sasana taught him the Burmese alphabets, basic Pali grammar, Mangala Sutta (38 blessings) and Lokaniti (A Guide on Conduct).
Tại đó, Đại đức Sayadaw U Sasana đã dạy cho ông bảng chữ cái tiếng Miến Điện, ngữ pháp Pali cơ bản, Mangala Sutta (38 phước lành) và Lokaniti (Hướng dẫn về Giới hạnh).
When he was a school boy, his grandfather taught him the Buddhist prayers and recitations. His grandparents, U Chai and Daw Aunt loved him dearly because he was so intelligent that he could learn quickly by rote all the Buddhist recitations taught by the elders.
Khi ông còn là một cậu bé đi học, ông của ông đã dạy ông những bài kinh và tụng kinh Phật giáo. Ông bà của ông, U Chai và Dì Daw rất yêu quý ông vì ông rất thông minh và có thể học thuộc nhanh tất cả các bài tụng Phật giáo do các trưởng lão dạy.
Like all the Buddhist boys he was initiated as a novice at the Min Kyaung Taik in Myingyan by the Preceptor Venerable Sayadaw U Sobhita. From the age of 7, he learned from him. He could follow all his lessons more quickly than his classmates, possibly by his intuition and ingenuity. He read his lessons three times a day. He never left his study until he finished his daily homework.
Giống như tất cả các cậu bé Phật tử, ông được khởi đầu xuất gia làm Sadi tại Min Kyaung Taik ở Myingyan bởi Thượng tọa Sayadaw U Sobhita. Từ năm 7 tuổi, ông đã học hỏi từ Thượng tọa. Ông có thể theo học tất cả các bài học của mình nhanh hơn các bạn cùng lớp, có thể bằng trực giác và sự khéo léo của mình. Ông đọc các bài học của mình ba lần một ngày. Ông không bao giờ lơ là việc học của mình cho đến khi hoàn thành bài tập về nhà hàng ngày.
Since his childhood, he has spent his leisure by reading journals, magazines and books. He began to have literary taste at 10.
Từ khi còn nhỏ, ông đã dành thời gian nhàn rỗi của mình bằng cách đọc báo chí, tạp chí và sách. Ông bắt đầu có khiếu văn học từ năm 10 tuổi.
At 10, as his mother wished to sponsor the initiation of his son into the Order, he was reinitiated as a novice by the Preceptor Venerable Sayadaw U Sobhita. The Venerable Sayadaw named him “Shin Vicittasara.” The name in Pali means “Outstanding.”
Năm 10 tuổi, do mẹ ông mong muốn bảo trợ cho việc xuất gia của con trai mình, ông đã được Trưởng Lão Sayadaw U Sobhita cho làm lễ Sadi. Trưởng Lão Sayadaw đặt tên cho ông là “Shin Vicittasara.” Tên trong tiếng Pali có nghĩa là “Nổi bật.”
After learning eleven parittas by rote, Sayadaw U Sobhita taught him “Kaccayana Grammar” (Pali Grammar). Being an outstanding student, he did not find any difficulty in learning such a Grammar. This Grammar, written by Thera Kaccayana, is a very important treatise for the monks in Theravada Buddhist countries. It is like a key for learning the Tipitaka (Buddhist Texts).
Sau khi học thuộc lòng 11 parittas (kinh hộ trì), Sayadaw U Sobhita đã dạy ông ấy “Kaccayana Grammar” (Ngữ pháp tiếng Pali). Là một học sinh xuất sắc, ông không gặp khó khăn gì khi học Ngữ pháp như vậy. Cuốn Ngữ pháp này, được viết bởi Thera Kaccayana, là một bộ luận rất quan trọng đối với các tăng sĩ ở các quốc gia Phật giáo Theravada. Nó giống như một chìa khóa để học Tipitaka (Kinh Điển Tam Tạng).
At 13, he sat for the Vinaya Examination held by the Sanghasamaggi Association in Myingyan where he succeeded in reciting the Pali Grammar. He became very famous in Myingyan religious circle. At 14, he sat for another Pariyatti Examination conducted by the same Association where he succeeded in reciting the Abhidhamma before the elder monks. He was then presented with Pitaka texts by the Venerable Sayadaw U Sobhita and his uncle, U Phyu Lwin. Since then he was keen on learning these canonical texts.
Năm 13 tuổi, ông tham dự kỳ thi Luật Tạng do Hiệp hội Sanghasamaggi tổ chức ở Myingyan, nơi ông đã thành công trong việc đọc thuộc ngữ pháp Pali. Ông trở nên rất nổi tiếng trong “Myingyan religious circle”. Năm 14 tuổi, ông tham dự một Kỳ thi Pariyatti (Pháp-học) khác do cùng một Hiệp hội tiến hành, nơi ông đã thành công trong việc trì tụng Vi Diệu Pháp Abhidhamma trước các vị Đại Trưởng Lão. Sau đó ông được Thượng tọa Sayadaw U Sobhita và chú của Ngài, U Phyu Lwin, giảng dạy các bản văn Kinh Tạng. Kể từ đó, ông quan tâm đến việc học các văn bản kinh điển này.
Since 14, he was very much interested in poems and other literary works. Knowing his interest, Sayadaw U Sobhita proposed him to study the volume called “Poranadipani“, a treatise on composition of poems written by Hmawbi Saya Thein. This treatise is the fundamentals for his future courses of study of religious examinations.
Từ năm 14 tuổi, ông đã rất quan tâm đến các bài thơ và các tác phẩm văn học khác. Biết được sự quan tâm của ông, Sayadaw U Sobhita đề nghị ông nghiên cứu cuốn “Poranadipani”, một chuyên luận về bố cục của các bài thơ do Hmawbi Saya Thein viết. Luận thuyết này là nền tảng cơ bản cho các khóa học nghiên cứu về thi cử trong tương lai của ông.
At 15, he passed the Lower Grade Religious Examination (Pahtamange). The following year, he passed the Middle Grade Religious Examination (Pahtamalat).
Năm 15 tuổi, ông thi đậu kỳ thi Sơ cấp Tôn giáo Lower Grade Religious (Pahtamange). Năm sau, ông thi đậu kỳ thi Trung cấp Tôn giáo (Pahtamalat).
Since his youth, he has studied Buddhist canonical texts, Pali Atthakatha and Tika. He learnt the texts by rote during the day and recited them at night.
Từ khi còn trẻ, ông đã nghiên cứu các văn bản kinh điển của Phật giáo, Pali Atthakatha và Tika. Ông học thuộc lòng vào ban ngày và ngâm tụng vào ban đêm.
At 19, he left for Mingon Hill in Sagaing Township to continue his study under the direction of the Venerable Sayadaw Ashin Panna Tikkha of Dhammanada Monastery. While learning there, he obtained good support from Thilashin Daw Dhammacari.
Năm 19 tuổi, ông đến Mingon Hill ở Thị trấn Sagaing để tiếp tục tu học dưới sự chỉ đạo của Đại Trưởng Lão Sayadaw Ashin Panna Tikkha của Tu viện Dhammanada. Trong thời gian học ở đó, ông đã nhận được sự hỗ trợ tốt từ Thilashin Daw Dhammacari.
In 1292 B.E. (1930), with the support of Sir U Thwin and Lady Thwin, he was ordained monk (rahan).
Năm 1292 TCN (1930), với sự hỗ trợ của Ngài U Thwin và Phu nhân Thwin, ông được thọ giới cụ túc trở thành Tỳ-khưu (rahan).
In 1294 B.E. (1932 A.D.), he also passed the Pahtamagyi Examination sponsored by the Venerable Thetpan Sayadaw, President of the Maha Sanghasamaggi Association.
Năm 1294 B.E. (1932 SCN), ông cũng đã vượt qua Kỳ thi Pahtamagyi bảo trợ bởi Đại Trưởng Lão Thetpan Sayadaw, Chủ tịch Hiệp hội Maha Sanghasamaggi tài trợ.
In 1295 B.E. (1933 A.D.), he sat for the Higher Grade Religious Examination (Pahtamagyi) and passed with credit. The following year, he reappeared the same examination and stood first with credit and thereby obtained the rare title “Pahtamakyaw.”
Năm 1295 B.E. (Năm 1933 sau Công Nguyên), ông đã tham dự Kỳ thi Tôn giáo Cao cấp (Pahtamagyi) và đậu với chứng chỉ. Năm sau, ông tái xuất kỳ thi tương tự và đứng nhất với sự tín nhiệm và nhờ đó có được danh hiệu hiếm có “Pahtamakyaw – Pháp Sư Tam Tạng.”
In 1295 B.E. (1933 A.D.), he also passed the Pariyattisasanahita(Sakyasiha) – Examination- Sathindan (Graduate Level). The following year, he passed the Pariyatti-sasanahita (Sakyasiha)Examination-Sachadan (Lecturership). The word Abhivamsa was then suffixed to his name by the Maha Sanghasamaggi Association. Thus he has been known as “Ashin – Vicittasarabhivamsa.”
Năm 1295 B.E. (Năm 1933 sau Công Nguyên), ông cũng thi đậu Pariyattisasanahita (Sakyasiha) – Kỳ thi Sathindan (Cấp độ Cao học). Năm sau, ông thi đậu kỳ thi Pariyatti-sasanahita (Sakyasiha) – Sachadan (Giảng viên). Từ Abhivamsa sau đó được Hiệp hội Maha Sanghasamaggi đặt cho tên của ông. Vì vậy, ông đã được gọi là “Ashin – Vicittasarabhivamsa.”
In 1303 RE. (1941 A.D.), he passed the Dhammacariya Examination with distinctions and obtained the title “Sasanadhaja-siripavara- dhammacariya.”
Năm 1303 RE. (1941 sau Công Nguyên), Ngài đã vượt qua Kỳ thi Dhammacariya với những khả năng xuất chúng và đạt được danh hiệu “Sasanadhaja-siripavara- dhammacariya.”
In 1312 B.E. (1950 A.D.), he sat for the Third Tipitakadhara Selection Examination where he recited the five Vinaya Texts and became the holder of “Visittha-vinayadhara Mahavinayakovida” title. He was honoured by the President of the State and many Sayadaws and laymen.
Năm 1312 trước Công nguyên (1950 SCN), ông tham dự Kỳ thi Tuyển chọn Tipitakadhara lần thứ ba, nơi ông đọc thuộc 5 bản Luật tạng và trở thành người nắm giữ danh hiệu “Visittha-vinayadhara Mahavinayakovida”. Ông đã vinh danh bởi Chủ Tịch Nước và nhiều Đại Trưởng Lão Sayadaws và cư sĩ.
In 1313 B.E. (1951 A.D.), he sat for the Fourth Tipitakadhara Selection Examination and passed the recitation of the first five treatises on Abhidhamma and corresponding written examination. In 1314 B.E. (1952 A.D.), he passed the recitation of the second part of the Abhidhamma Pitaka and corresponding written examination with distinctions. He was honoured and offered the title “Buddhasasanavisittha Abhidhammika Mahabhidhammakovida” with a religious flag marked by two white umbrellas, by the President of the State.
Năm 1313 B.E. (1951 A.D.), Ngài tham dự Kỳ thi Tuyển chọn Tipitakadhara lần thứ tư và đã vượt qua việc đọc thuộc lòng năm luận thuyết đầu tiên về Vi Diệu Pháp và kỳ thi viết tương ứng. Năm 1314 B.E. (1952 sau Công Nguyên), ông đã thông qua việc đọc thuộc phần thứ hai của Abhidhamma Pitaka và kỳ thi viết tương ứng với khả năng xuất chúng. Ngài được Chủ Tịch Nước vinh danh và tặng danh hiệu “Buddhaasanavisittha Abhidhammika Mahabhidhammakovida” với lá cờ tôn giáo được đánh dấu bằng hai chiếc ô trắng.
In 1315 B.E. (1953 A.D.), he sat for the Sixth Tipitakadhara Selection Examination and passed the recitation test and corresponding written examination of remaining Pitaka Texts. The President of the State honoured him at a grand ceremony where he conferred “Tipitakadhara” title on the Venerable Sayadaw U Vicittasarabhivamsasa. He became the first monk to win this title. During the same year, he was praised and honoured by many religious associations as well as Buddhist devotees throughout the country.
Năm 1315 TCN (1953 sau Công Nguyên), ông tham dự Kỳ thi Tuyển chọn Tipitakadhara lần thứ sáu và đã vượt qua kỳ kiểm tra đọc thuộc lòng và kỳ thi viết tương ứng đối với các bản Kinh Tạng còn lại. Chủ Tịch Nước đã vinh danh ông tại một buổi lễ lớn, nơi ông đã được phong tặng danh hiệu “Tipitakadhara” cho Trưởng Lão Tam Tạng Thứ Nhất Sayadaw U Vicittasarabhivamsasa. Ông trở thành nhà sư đầu tiên giành được danh hiệu này. Cũng trong năm này, Ngài được nhiều hiệp hội tôn giáo cũng như tín đồ phật tử trong cả nước ca ngợi và tôn vinh.
From 1954 to 1956, the Sixth Buddhist Synod was held at the Mahapasana Cave in the Kaba-Aye Pagoda compound in Rangoon.
Từ năm 1954 đến năm 1956, Đại hội đồng Phật giáo lần thứ sáu (Kết Tập Tam Tạng lần VI) được tổ chức tại Hang động Mahapasana trong khuôn viên chùa Kaba-Aye ở Rangoon.
During the Synod, he participated in answering all the questions concerning Vinaya (Disciplinary Rules). There he also acted as a member of the Sangha Executive Committee.
Trong Đại Hội Kết Tập, ông đã tham gia trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến Vinaya (Tạng Luật). Tại đây, ông cũng hoạt động như một thành viên của Ban Chấp hành Tăng đoàn.
At the request of the Prime Minister and the Buddha Sasana Council, he started writing a treatise on the Life Story of the Buddha (Maha Buddhavamsa) in 1955 and concluded it in 1960. His work Maha Buddhavamsa, consisting of six volumes, is his master-piece. Besides, he edited many religious texts in Pali.
Theo yêu cầu của Thủ tướng và Hội đồng Buddha Sasana, ông bắt đầu viết chuyên luận Câu chuyện cuộc đời của Đức Phật (Maha Buddhavamsa) vào năm 1955 và kết thúc nó vào năm 1960. Tác phẩm Maha Buddhavamsa Đại Phật Sử, gồm sáu tập, là kiệt tác của ông. Ngoài ra, ông còn biên tập nhiều văn bản tôn giáo bằng tiếng Pali.
In 1979, the Council of State of the Socialist Republic of the Union of Burma conferred the title “Agga maha Pandita” * on him. In 1980, he took responsibility as the Akyanpay Sayadaw (Adviser) to the Sangha Working Committee for convening the First Congregation of the Sangha of all Orders. At the Congregation he was elected as the Akyosaung Sayadaw (Secretary ) of the State Sangha Mahanayaka Committee.
Năm 1979, Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Miến Điện đã phong tặng danh hiệu “Agga maha Pandita” * cho ông. Năm 1980, ông nhận trách nhiệm với tư cách là Akyanpay Sayadaw (Cố vấn) cho Ban Công tác Tăng sự về việc triệu tập Giáo đoàn đầu tiên của Tăng đoàn của tất cả các Giáo đoàn. Tại Giáo đoàn, ông được bầu làm Akyosaung Sayadaw (Thư ký) của Ủy ban Mahanayaka Tăng già Nhà nước.
Until now he is holding the same responsibility in the State Sangha Mahanayaka Committee. Moreover, he continues to support, materially and spiritually, the members of the Sangha in their study of the Buddhist Canonical Texts.
Cho đến nay ông đang giữ trách nhiệm tương tự trong Ủy ban Mahanayaka Tăng già Nhà nước. Hơn nữa, ông tiếp tục hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho các thành viên của Tăng đoàn trong việc nghiên cứu các Kinh điển Phật giáo.
He is indeed a Sasana Arjani (the Outstanding Buddhist Monk) still living in our beautiful land of pagodas.**
Ông ấy thực sự là một Sasana Arjani (Nhà Sư Phật giáo lỗi lạc) thời đương đại trong xứ sở chùa tháp xinh đẹp của chúng ta. **
* For a monk to obtain such a title, he should:- (a) be well-versed in the Pali Canonical Texts, (b) be continuously teaching these texts, (c) be well-known as being learned in these texts. (d) have had a minimum of 20 years of monkhood, and (e) be unblemished in the observance of Vinaya (Disciplinary Rules).
* Để một tu sĩ có được danh hiệu như vậy, ông ấy cần – (a) thông thạo các bản Kinh điển Pali, (b) liên tục giảng dạy các bản văn này, (c) được biết đến nhiều như đã học trong các bản kinh này. (d) đã có tối thiểu 20 năm xuất gia, và (e) không có dấu hiệu gì trong việc tuân thủ Luật tạng (Quy tắc kỷ luật).
** Sayadaw passed away on 3rd Waning day of 1354 B.E at the age of 81 (9th February 1993) . (Editor; Nibbana.com)
** Sayadaw qua đời vào ngày Quốc khánh thứ 3 năm 1354 trước Công nguyên ở tuổi 81 (ngày 9 tháng 2 năm 1993). (Biên tập; Nibbana.com)
Các Tài Liệu Liên Quan Khác:
- Link thư mục tác giả Mingun Sayadaw Tỳ Khưu
- Link thư mục ebook tác giả Mingun Sayadaw Tỳ Khưu
- Link thư mục video tác giả Mingun Sayadaw Tỳ Khưu
- Link thư mục audio tác giả Mingun Sayadaw Tỳ Khưu
- Link tải app mobile Phật Giáo Theravāda