PHÉP TRUYỀN CỤ TÚC GIỚI
(UPASAMPADĀ)
Lễ truyền cụ túc giới là sự tế độ cho một thiện nam tử hay vị sa-di được đắc thành tăng tướng Tỳ-kheo.
Phép truyền cụ túc giới nhất định phải theo qui cách luật chế định mà Ðức Thế Tôn đã ban hành từ xưa. Tăng sự này phải được thực hiện trải qua nhiều giai đoạn tuyên ngôn; tăng hội chứng minh phải có túc số tối thiểu là mười vị Tỳ-kheo, ở tại Ấn Quốc độ bắt buộc phải có tăng hội từ hai mươi vị mới được phép truyền cụ túc giới; tăng sự phải được tiến hành trong sīmā, và giới tử (người thọ cụ túc) phải là người nam, người công dân hợp pháp, phải sắm đủ y bát, được cha mẹ hoặc người bảo hộ cho phép, tuổi phải đủ trên hai mươi.
Trong tăng sự sẽ có một vị trưởng lão đức hạnh đủ hạ lạp để làm thầy tế độ (upajjhāyo) của giới tử, phải có một hoặc hai vị Tỳ-kheo thông hiểu luật nghi và tiếng pàli để hướng dẫn giới tử và bạch trình tuyên ngôn đến tăng, vị này gọi là thầy yết-ma (Kammavācācariya) .
Cách thức tăng sự.
Trước tiên thầy yết-ma đặt tên tạm để ám chỉ thầy tế độ và giới tử như sau; khi thầy yết-ma hỏi hoặc nói điều gì, giới tử phải trả lời cho hợp lý:
Āc. Tvaṃ nāgo nāma.
Ngươi tên là Nāga.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Tuyhaṃ upajjhāyo āyasmā tissatthero nāma.
Thầy tế độ của ngươi là ngài trưởng lão Tissa.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Tiếp đến thầy yết-ma kiểm tra đầy đủ tam y và bình bát của giới tử:
Āc. Paṭhamaṃ upajjhaṃ gāhāpetabbo upaj-jhaṃ gāhāpetvā pattacīvaraṃ ācikkhitabbaṃ. Ayan-te patto.
Trước tiên phải cho nhận thầy tế độ, sau khi bái sư phải trình bày y bát. Ðây là bát của ngươi!
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ saṅghāṭi
Ðây là y Tăng-già-lê.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ uttarāsaṅgo
Ðây là y uất đà la tăng.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ antaravāsako.
Ðây là y an-đà-hội.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Gaccha amumhi okāse tiṭṭhāhi.
Hãy đi ra đứng chỗ kia.
Thầy yết-ma bảo giới tử lui ra đứng chỗ phía ngoài tăng hội rồi trở vào giữa tăng tuyên ngôn trình tăng xin được chỉ dạy giới tử:
“Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ ahaṃ nāgaṃ anusāseyyaṃ.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, nàga là đệ tử của Ngài Tissa, muốn thọ cụ túc giới. Nếu đã hợp thời với tăng, tôi xin được chỉ dạy Nāga.
Thầy yết-ma bước ra ngoài đến chỗ giới tử đứng mà dạy bảo các điều cần thiết như sau:
Suṇāsi nāga ayan te saccakālo bhūtakālo yaṃ jātaṃ taṃ saṅghamajjhe pucchante santaṃ atthī’ ti vattabbaṃ asantaṃ natthī’ ti vattabbaṃ. Mā kho viṭṭhāsi mā kho maṅku ahosi. Evantaṃ pucchissanti santi te evarūpā ābādhā:
Nầy Nāga, nay là lúc ngươi phải thành thật, trung thực, điều nào ngươi được hỏi giữa tăng, có thì phải nói là có, không có, phải nói không có. Ngươi đừng giấu giếm, đừng thẹn thùng. Ta sẽ hỏi ngươi những chứng bệnh như vầy ngươi có không?
Āc. Kuṭṭhaṃ?
Bệnh cùi?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Gaṇḍo?
Bệnh ung nhọt?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Kilāso?
Bệnh da liểu?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Soso?
Bệnh lao?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Apamāro?
Bệnh phong điên?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Manusso si?
Ngươi là loài người phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Puriso’ si?
Ngươi là nam nhân phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Bhujisso’ si?
Ngươi là người tự do phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Anaṇo’ si?
Ngươi là người vô nợ phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Na’ si rājabhaṭo?
Ngươi không bị quân dịch phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Anuññāto’ si mātāpitūhi?
Ngươi có được mẹ cha cho phép chăng?
Nāg. Āma bhante!
Có, thưa ngài.
Āc. Paripuṇṇavīsati vasso’ si
Ngươi đủ 20 tuổi chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?
Y và bát của ngươi có đủ chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Kinnāmo’ si?
Ngươi tên là gì?
Nāg. Ahaṃ bhante nāgo nāma.
Thưa ngài, con tên là Nāga.
Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?
Thầy tế độ của ngươi là ai?
Nāg. Upajjhāyo me bhante āyasmā Tissatthe-ro nāma.
Bạch Ngài, Thầy tế độ của con là Ngài trưởng lão Tissa.
Chỉ dạy giới tử xong rồi, Thầy yết-ma trở vào trình tăng để cho gọi giới tử, tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa upasampadāpekkho anusiṭṭho so mayā yadi saṅghassa pattakallaṃ nāgo āgaccheyya āgacchāhī’ ti vattabbo. Āgacchāhi!
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga đệ tử của Ngài Tissa, là người muốn thọ cụ túc giới, người ấy đã được tôi chỉ dạy xong. Nếu đã hợp thời với Tăng, phải cho Nāga đi vào. Nên nói ” Người đi vào”. Hãy đi vào!
*
Phần giới tử khi được gọi nên bước vào giữa Tăng chúng, đảnh lễ Tăng và tác bạch xin thọ cụ túc giới, như sau:
Saṅghaṃ bhante upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Dutiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Tatiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Bạch đại đức Tăng, con cầu xin thọ giới cụ túc nơi Tăng. Mong đại đức Tăng vì lòng bi mẫn mà tế độ con.
Lần thứ nhì … lần thứ ba …
Sau khi giới tử đã tác bạch xin thọ cụ túc giới nơi tăng, vị yết-ma bạch trình Tăng cho phép sát hạch giới tử những điều nguyên tắc, tuyên ngôn trình Tăng như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ Nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ nāgaṃ antarāyike dhamme puccheyyaṃ.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, đây là Nàga, người muốn thọ cụ túc giới, đệ tử của Tôn giả Tissa. Nếu đã hợp thời với Tăng, tôi xin được hỏi Nàga về các điều chướng ngại.
Rồi xoay qua giới tử, thầy yết-ma bắt đầu hạch hỏi:
Suṇāsi nāga ayante saccakālo bhūtakālo yaṃ jātaṃ taṃ pucchāmi santaṃ atthī’ ti vattabbaṃ asantaṃ natthī’ ti vattabbaṃ. Santi te evarūpā ābādhā.
Nầy Nāga, hãy nghe đây, nay là lúc ngươi phải thành thật trung thực; điều nào ta hỏi có thì nên nói là có, không có thì nói là không có. Những chứng bệnh như vầy người có không.
Āc. Kuṭṭhaṃ?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Gaṇḍo?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Kilāso?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Soso?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Apamāro?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Manusso’ si
Nāg. Āma bhante!
Āc. Puriso’ si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Bhujisso’ si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Anaṇo’ si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Na’ si rājabhaṭo?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Anuññāto’ si mātāpitūhi?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Paripuṇṇavīsativasso’ si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Kinnāmo’ si?
Nāg. Ahaṃ bhante Nāgo nāma.
Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?
Nāg. Upajjhāyo me bhante āyasmā tissat-thero nāma.
(Nghĩa: Lời vấn đáp, toàn bộ đều như trước).
*
Hoàn tất nghi thức hướng dẫn giới tử, thẩm vấn luật lệ xong, vị yết-ma chính thức tác pháp yết-ma trình tăng truyền giới cụ túc, bằng tứ bạch tuyên ngôn (ñatticatutthakammavācā), như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi paripuṇṇassa pattacīvaraṃ. Nā-go saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tissena upajjhāyena. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho nāgaṃ upasampādeyya āyasmatā tissena upajjhā-yena. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi paripuṇṇassa pattacīvaraṃ. Nāgo saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tis-sena upajjhāyena. Saṅgho nāgaṃ upasampādeti āyasmatā tissena upajjhāyena. Yass’āyasmato kha-mati nāgassa upasampadā āyasmatā tissena upaj-jhāyena so tuṇh’assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Upasampanno saṅghena nāgo āyasmatā tissena upajjhāyena. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là người muốn thọ cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh tịnh các pháp chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc nơi tăng, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng nên truyền giới cụ túc cho Nāga có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là người muốn thọ giới cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh tịnh các pháp chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc nơi tăng, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Tăng truyền cụ túc cho Nāga, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Sự truyền cụ túc cho Nāga, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa nếu vị nào chấp nhận thì im lặng, như vĩ nào không chấp nhận phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ hai.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi .. nt … phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ ba.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi … nt … phải nói ra. Nāga đã được Tăng truyền giới cụ túc, có Tôn giả Tissa là thầy tế độ. Tăng chấp nhận nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
Khi dứt tứ bạch tuyên ngôn ngay lúc nào thì Thiện nam tử ấy thành tựu phẩm mạo Tỳ-kheo (bhikkhu) ngay khi ấy.
*
Phận sự của thầy tế độ tiếp theo đó phải làm đối với tân Tỳ-kheo đệ tử của mình, là phải đo bóng thời gian, tính ra ngày, tháng, năm tu của đệ tử, và đếm số tăng hội chứng minh truyền cụ túc giới hôm đó, sau nữa là chỉ dạy tân Tỳ-kheo về những điều phạm hạnh cơ bản, gồm có bốn y pháp (nissaya: pháp nương trong đời sống) và bốn bất tác pháp (akaranīya: điều không nên làm).
Việc chỉ giáo (anusāsana) nầy là phận sự của thầy tế độ (upajjhāyo), nhưng nếu Ngài già yếu không đảm trách nổi, thì giao phó việc ấy cho vị yết-ma giáo thọ đảm nhận cũng được.