PHÉP SÁM HỐI TỘI
(ĀPATTIDESANĀ)

Tội (āpatti) là mức độ lỗi lầm đã vi phạm trong điều luật mà Ðức Phật đã cấm chế.

Tội của Tỳ-kheo phạm luật trong giáo pháp nầy qui định có 7 thứ:

– tội triệt khai (pārājika),
– tội tăng tàng (saṅghādisesa),
– tội thô suất (thullaccaya),
– tội ưng phát lộ (pāṭidesanīya),
– tội ưng xả đối trị (nissaggiyapācittiya),
– tội ưng đối trị (pācittiya),
– tội tác ác (dukkaka), và
– tội ác khẩu (dubbhāsita).

Tội triệt khai hay tội bất cộng trụ, là tội mất gốc, không thể sám hối xuất tội với bất cứ hình thức gì.

Tội tăng tàng cần được xuất tội bằng cách thọ phạt biệt trú trước tăng hội.

Ngoài hai tội trên đây, các tội khác đều có thể xuất tội bằng cách sám hối (paṭidesanā). Sám hối là đối mặt với một vị Tỳ-kheo thanh tịnh khác rồi bày tỏ lỗi lầm mình đã phạm và nguyện hứa chừa cãi sau nầy.

Có ba cách sám hối:

– Cách sám hối phổ thông, đối với các tội thullaccaya, pācittiya, dukkata, dubbhāsita.
– Cách sám hối tội ưng phát lộ
– Cách sám hối tội ưng xả đối trị.

1) Cách sám hối phổ thông.

* Sám hối đích tội danh đã phạm từng điều luật.

Vị sám hối nói: Ahaṃ bhante [1] ekaṃ thul-laccayaṃ [2] āpattiṃ āpanno taṃ paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm một tội thô suất, tôi xin sám hối tội ấy.

Vị chứng tội hỏi: Passasi āvuso [3] taṃ āpattim.  
Hiền giả, ông có thấy rõ tội ấy chăng?

Vị sám: Āma bhante passāmi.
Bạch ngài, tôi thấy rõ.

Vị chứng: Āyatiṃ āvuso saṃvareyyāsi [4].
Hiền giả, ông hãy nên thu thúc sau nầy.

Vị sám: Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi. Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi.
Lành thay, bạch Ngài, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp.

* Sám hối đích tội danh đã phạm hai điều luật:

Vị Sám: Ahaṃ bhante [5] dve thullaccayāyo [6] āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm hai tội thô suất, tôi xin sám hối những tội ấy.

Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo.
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?

… tiếp theo có cách thức như trước.

* Sám hối đích tội danh đã phạm nhiều điều luật:

Vị sám: Ahaṃ bhante [7] sambahulā nānā-vatthukāyo thullaccayāyo [8] āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm nhiều tội thô suất có điều học khác biệt, tôi xin sám hối những tội ấy.

Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?

… Tiếp theo có cách thức như trước.

* Sám hối tổng quát nhiều tội danh:

Vị sám: Ahaṃ bhante sambahulā nānāvat-thukāyo thullaccayāyo ca pācittiyāyo ca dukkatāyo ca dubbhāsitāyo ca āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm nhiều tội thô suất, tội ưng đối trị, tội tác ác và tội ác khẩu có điều học khác biệt; tôi xin sám hối những tội ấy.

Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?

… tiếp theo có cách thức như trước.

* Sám hối tổng quát không nêu tội danh:

Vị sám: Sabbā tā āpattiyo ārocemi. Sabbā garu-lahutā āpattiyo ārocemi. Ahaṃ bhante sambahulā nānāvatthukāyo āpattiyo āpajjiṃ tā tumha mūle paṭidesemi.
Tôi xin khai ra tất cả tội ấy, Tôi xin khai ra tất cả tội nặng nhẹ. Bạch ngài, tôi đã phạm nhiều tội có những điều học khác nhau, tôi xin sám hối với Ngài những tội ấy.

Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?

… tiếp theo có cách thức như trước.

2) Cách sám hối tội ưng phát lộ (pāṭide-sanīya).

Tội ưng phát lộ là tội do phạm trong bốn điều học ưng phát lộ (pāṭidesanīyasikkhāpada); cách xuất tội này cũng bằng cách đối mặt sám hối, có cách thức tương tợ như trước nhưng lời trình tội có khác đôi chút như sau:

Vị sám: Gārayhaṃ bhante [9] dhammaṃ āpajjiṃ [10] asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ paṭidesemi.
Bạch ngài, tôi đã phạm một điều đáng quở trách, không thích hợp, cần được phát lộ, tôi xin sám hối điều ấy.

Vị chứng: Passasi āvuso?
Hiền giả, ông thấy rõ chăng?

v.v…

3) Cách sám hối tội ưng xả đối trị (nissag-giya)

Tội ưng xả đối trị là tội do phạm trong ba mươi điều học ưng xả (nissaggiya).

Tội ưng xả đối trị cần được sám hối bằng cách là trước phải giao ra vật sanh tội đáng xả bỏ rồi sám hối ưng đối trị sau.

Vật sanh tội tức là vật ưng xả, như là y tích trử, y rời xa đêm, bình bát dư, vàng bạc …v.v…

Vật ưng xả phải xả bỏ trước Tăng, hay trước nhóm Tỳ-kheo, hoặc trước một vị Tỳ-kheo khác.

Tội ưng xả đối trị có nhiều trường hợp như sau:

* Sám hối tội giữ y dư quá hạn.

Sám hối với Tăng; Tỳ-kheo phạm tội ấy cầm lấy y ưng xả đi đến Tăng rồi tuyên bố xả bỏ như sau:

Idaṃ [11] me bhante [12] cīvaraṃ dasāhātikkan-taṃ nissaggiyaṃ imā’ haṃ saṅghassa nissajjāmi.

Bạch đại đức Tăng, y nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ y nầy đến Tăng.

Một vị trong tăng sẽ tự nhận đại diện Tăng để chứng tội sám hối của vị Tỳ-kheo ấy; tự nhận bằng lời trình Tăng như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttānīkaroti deseti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ Itthannāmassa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyyaṃ [13].

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy nhớ ra tội, nhận tội, khai tội, thú tội. Nếu đã hợp thời với tăng, tôi xin được chứng nhận tội cho Tỳ-kheo Itthannāma.

Tiếp đến Tỳ-kheo can phạm sẽ sám hối với vị đại diện Tăng:

Sám – Ahaṃ bhante [14] ekaṃ nissaggiyaṃ pācittiyaṃ āpanno taṃ [15] paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm một điều ưng xả đối trị, tôi xin sám hối điều ấy.

Chứng – Passasi āvuso taṃ āpattiṃ?
Hiền giả, ông thấy rõ tội ấy chăng?

Sám – Āma bhante passāmi.
Bạch Ngài, tôi thấy rõ.

Chứng – Āyatiṃ āvuso saṃvareyyāsi.
Hiền giả, ông nên thu thúc sau nầy.

Sám – Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi.
Lành thay, bạch ngài, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp.

Sau khi Tỳ-kheo ấy xả vật sanh tội và sám hối như vậy xong, vị đại diện Tăng phải tuyên ngôn trình tăng để cho y lại Tỳ-kheo ấy, như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho, idaṃ[16] cīvaraṃ it-thannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ saṅghassa nissaṭṭhaṃ. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, đây là y ưng xả của Tỳ-kheo Itthannāma, đã xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với tăng, Tăng hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma y nầy.

Tỳ-kheo khi được cho lại y ưng xả phải làm theo luật để hợp thức hoá sử dụng y dư, bằng cách ký gởi (xem phần ký gởi y bát).

Trường hợp sám hối ưng xả với nhóm Tỳ-kheo 2, 3 vị. Tỳ-kheo nói lời xả bỏ y dư đến nhóm Tỳ-kheo như sau:

Idaṃ me bhante cīvaraṃ dasāhātikkantaṃ nissaggiyaṃ imā’ haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.

Bạch quí ngài, y nầy của tôi đã giữ quá hạn mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ y này đến các Tôn giả.

Một vị trong nhóm sẽ nhận đại diện để chứng tội cho Tỳ-kheo sám hối, bằng tuyên ngôn như sau:

Suṇantu me āyasmantā ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttānīkaroti deseti. Yad’ āyasmantānaṃ pattakallaṃ ahaṃ Itthannāmas-sa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyyaṃ.

Bạch chư Tôn giả, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy nhớ ra tội, nhận tội, khai tội, thú tội. Nếu đã hợp thời với chư Tôn giả, tôi xin được chứng nhận tội cho Tỳ-kheo Itthannāma.

Tiếp đến là nghi thức sám hối, giống như phần trước.

Nhóm Tỳ-kheo cho lại vị ấy y đã xả bằng cách, tuyên ngôn như sau:

Suṇantu me āysmantā idaṃ cīvaraṃ it-than-nāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ āyasmantānaṃ nis-saṭṭhaṃ. Yad’ āysmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyyuṃ.

Bạch chư Tôn giả, hãy nghe tôi, đây là y ưng xả của Tỳ-kheo Itthannāma, đã xả bỏ đến các Tôn giảṆếu hợp thời với các Tôn giả, các Tôn giả hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma y nầy.

*

Chú ý những thay đổi cần thiết, xem phần trước.

Y dư phạm ưng xả, nếu không có dịp xả với tăng hay nhóm Tỳ-kheo, thì xả bỏ và sám hối với một vị Tỳ-kheo khác cũng được. Lời xả bỏ y dư như sau:

Idaṃ me bhante cīvaraṃ dasāhātikkantaṃ nissaggiyaṃ imā’ haṃ āyasmato nissajjāmi.

Bạch Ngài, y nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xả bỏ y nầy đến Ngài.

Tiếp theo áp dụng nghi sám hối, như phần trước.

Vị kia phải nói cho lại y xả, như sau:

Imaṃ cīvaraṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại Tôn giả y nầy.

Chú ý các thay đổi cần thiết .

* Sám hối tội rời bỏ y cách đêm

Tỳ-kheo ngoài thời hạn quả báo Kaṭhina lại để rời khỏi hắc tay cách đêm một trong tam y (y nội, y vai trái, y Tăng-già-lê) thì phạm ưng xả đối trị.

Y đã rời xa ấy thành vật phải xả bỏ xả trước Tăng hay nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị nào khác cũng được, rồi sám hối.

Nếu sám hối với Tăng, xả bỏ y phạm tội như sau:

Ayaṃ me bhante [17] saṅghāti [18] ekarattiṃ vippavuṭṭhā [19] aññatra bhikkhusammatiyā nis-saggiyā [20]imā’ haṃ saṅghassa nissajjāmi.

Bạch quí ngài, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời xa cách đêm, thành vật ưng xả, trừ phi Tỳ-kheo được cho phép; Tôi xin xả bỏ y nầy đến tăng.

Tiếp đến, Tăng cử đại diện để chứng tội, Tỳ-kheo sám hối, và Tăng cho lại y xả, mọi nghi thức tuyên ngôn và sám hối đều áp dụng giống như trong cách “sám hối tội giữ y dư quá hạn”, phần Tăng xử lý.

Nếu sám hối với nhóm 2 hay 3 vị Tỳ-kheo thì lời xả bỏ y phạm tội như sau:

Ayaṃ me bhante saṅghāṭi ekarattiṃ vippa-vuṭṭhā aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyā imā’ haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.

Bạch các Tôn giả, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời xa cách đêm, thành vật ưng xả, trừ phi Tỳ-kheo được cho phép; tôi xả bỏ y nầy đến các Tôn giả.

Tiếp theo, nhóm cử đại diện chứng tội, Tỳ-kheo sám hối, và nhóm cho lại y xả, mọi nghi thức đều áp dụng như cách “sám hối tội giữ y dư quá hạn” phần do nhóm xử lý.

Nếu là trường hợp sám hối với một vị Tỳ-kheo khác, thì lời xả bỏ y phạm tội như sau:

Ayaṃ me bhante saṅghāṭi ekarattiṃ vippa-vuṭṭhā aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyā imā ‘ haṃ āyasmato nissajjāmi.

Thưa Tôn giả, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời xa cách đêm, thành vật ưng xả, trừ phi Tỳ-kheo được cho phép; tôi xin xả bỏ y nầy đến Tôn giả.

Tiếp theo mọi nghi thức khác hãy áp dụng như trong tội giữ y quá hạn, do một vị xử lý.

* Sám hối tội giữ bình bát dư.

Vị Tỳ-kheo có bát dư, cất giữ bát dư quá mười ngày phạm tội ưng xả đối trị, bình bát ấy phải xả bỏ.

Có thể xả bỏ bát dư ấy đến tăng hoặc nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị cũng được.

Xả bỏ bình bát dư đến Tăng, nói như sau:

Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā’ haṃ saṅghassa nissajjāmi.

Bạch đại đức Tăng, đây là bình bát của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ bát nầy đến Tăng.

Tiếp theo, Tăng cử đại diện chứng tội và Tỳ-kheo đương sự hãy sám hối với vị ấy, mọi nghi thức như trước.

Sau cùng Tăng cho lại Tỳ-kheo ấy bình bát bằng tuyên ngôn như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ patto itthan-nāmassa bhikkhuno nissaggiyo saṅghassa nisaṭṭho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imaṃ pattaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya [21].

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, đây là bình bát của Tỳ-kheo Itthannāma, thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho lại bình bát nầy đến Tỳ-kheo itthannàma.

Tỳ-kheo đã được lại bát phải ký gởi theo luật mới nên cất giữ hoặc sử dụng.

*

Trường hợp xả bỏ bình bát dư đến nhóm vài ba vị Tỳ-kheo thì lời xả bỏ như sau:

Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā’ haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.

Thưa các Tôn giả, bình bát nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ bình bát nầy đến các Tôn giả.

Tiếp theo cử một vị đại diện cho nhóm để chứng tội cho Tỳ-kheo ấy, và vị ấy sám hối; nghi thức giống như cách sám hối tội giữ y dư, với nhóm Tỳ-kheo thụ lý.

Rồi sau đó nhóm Tỳ-kheo cho lại bình bát xả, bằng tuyên ngôn như vầy:

Suṇantu me āyasmantā ayaṃ patto itthannā-massa bhikkhuno nissaggiyo āyasmantānaṃ nisaṭ-ṭho. Yad’ āyasmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ pattaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyyuṃ.

Thưa các Tôn giả, hãy nghe tôi, đây là bình bát của Tỳ-kheo Itthannāma, thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến các Tôn giảṆếu đã hợp thời với các Tôn giả, các Tôn giả hãy cho lại Tỳ-kheo Itthannāma bình bát nầy.

Khi Tỳ-kheo được cho lại bình bát, hãy theo luật ký gởi mới nên sử dụng hoặc cất giữ.

Trường hợp xả bỏ bình bát dư đến một vị, thì nói như sau:

Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā’haṃ āyasmato nissajjāmi .

Bạch Ngài, đây là bình bát của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ bình bát nầy đến Ngài.

Tiếp đó làm nghi thức sám hối, vị Tỳ-kheo kia hãy nói cho lại bình bát:

Imaṃ pattaṃ āyasmato dammi.

Tôi cho lại Tôn giả bình bát nầy.

Ðược lại bình bát Tỳ-kheo hãy làm theo luật ký gởi.

* Sám hối tội tìm bình bát trái phép.

Tỳ-kheo sử dụng bình bát chưa hư cũ, chưa bị lủng bể hơn năm dấu, bèn đi tìm kiếm bình bát mới, phạm tội ưng xả đối trị. Bình bát mới ấy phải xả bỏ.

Trường hợp này chỉ được làm nghi thức xuất tội với Tăng (saṅgha) thôi, chớ không thể sám hối xả bát với nhóm hay với một vị được.

Bình bát mới ấy cần được xả bỏ đến Tăng, nói như sau:

Ayaṃ me bhante patto ūnapañcabandhanena pattena cetāpito nissaggiyo imā’ haṃ saṅghassa nisajjāmi.

Bạch đại đức Tăng, đây là bình bát của tôi, đã tìm kiếm khi bình bát cũ chưa hư bể được năm vết, thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ bình bát nầy đến Tăng.

Tiếp đến, Tăng chứng tội cho Tỳ-kheo ấy sám hối. Tăng cử đại diện chứng tội sám hối bằng cách thông qua tuyên ngôn, nghi thức giống ở trước trong phần Tăng xử lý tội giữ y dư.

Sau khi Tỳ-kheo ấy sám hối ưng đối trị xong, Tăng hãy cho lại Tỳ-kheo ấy bình bát, nhưng không phải cho bình bát vừa xả đó mà cho bằng cách chuyễn đổi.

Việc chuyển đổi, Tăng sẽ cử ra một vị thực hiện, đề cử bằng tuyên ngôn như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅghassa pat-takallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ pattag-gāhāpakaṃ sammanneyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho. Saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ pattaggāhāpakaṃ sammannati. Yass’ āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno pattaggāhāpakassa sammati so tuṇh’ assa yassa nak-khamati so so bhāseyya. Sammato saṅghena itthan-nāmo bhikkhu pattaggāhāpako khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát. Ðó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tăng cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát. Nếu việc cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát, vị Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cử làm người trao bát, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.

Vị Tỳ-kheo được Tăng cử, hãy thực hiện việc chuyễn đổi bình bát, trước tiên cầm bát ưng xả đó trao cho vị lớn nhất rồi lấy bình bát của trưởng lão trao cho vị kế, lấy bình bát vị ấy trao cho vị kế nữa, cứ thế chuyển đổi đến vị cuối cùng trong tăng, mới lấy bình bát của vị cuối cùng ấy trao lại cho Tỳ-kheo đương sự và nói:

Ayante bhikkhu patto yāva bhedanāya dhāre-tabbo.

Nầy Tỳ-kheo, đây là bình bát của Ngài phải nên giữ cho đến khi bể hư.

Vị Tỳ-kheo ấy phải hoan hỷ nhận bát. Ðó là cách hợp thức hóa trong việc này.

* Sám hối tội thu giữ vàng bạc.

Tỳ-kheo tự mình thọ lãnh hoặc bảo người thọ lãnh hoặc bảo người thọ lãnh hoặc vui thích kho tàng sở hữu, phạm ưng xả đối trị. Vàng bạc châu báu ấy phải xả bỏ giữa Tăng rồi sám hối mới xuất tội được.

Tỳ-kheo đem vàng bạc ấy đến Tăng và nói xả bỏ như sau:

Ahaṃ bhante rūpiyaṃ paṭiggahesiṃ, idaṃ me bhante nissaggiyaṃ imā’ haṃ saṅghassa nissajjāmi.

Bạch đại đức Tăng, Tôi đã thọ nhận vàng bạc; bạch đại đức Tăng, vàng bạc nầy thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ đến Tăng.

Sau khi xả bỏ vật sanh tội, Tỳ-kheo ấy hãy làm lễ sám hối, Tăng cử đại diện chứng tội bằng tuyên ngôn, cách thức giống như ở phần Tăng xử lý “tội giữ y dư”.

Trường hợp vật ưng xả là vàng bạc, Tăng phải cử người ném bỏ mất đi chớ không nên cho lại Tỳ-kheo.

Nếu tại đấy có người cư sĩ đứng gần, Tăng nên bảo họ rằng: “Ngươi hãy biết xử lý vật nầy” người ấy hỏi lại: “với vật này phải đem vật chi đến?”, Tăng chỉ nên nói là hãy đem vật cần dùng. Sau đó nếu cư sĩ mang lại nhu yếu phẩm cho chư Tỳ-kheo, Tăng chia nhau dùng ngoại trừ Tỳ-kheo đương sự.

*

Cũng có thể bảo người cư sĩ ấy đem liệng bỏ vàng bạc, không cần gợi ý cho họ đổi thành nhu yếu phẩm. Nếu người cư sĩ ấy không chịu lấy liệng bỏ, Tăng nên cử một vị đủ đức tính hiền thiện để đem liệng bỏ vàng bạc ấy. Tăng cử bằng tuyên ngôn như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ rūpiya-chaḍḍakaṃ sammanneyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ rūpiyachaḍḍakaṃ sammannati. Yass’ āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno rūpiyachaḍḍakassa sammati so tuṇh’ assa yassa nak-khamati so bhāseyya. Sammato saṅghena itthan-nāmo bhikkhu rūpiyachaḍḍako khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người liệng bỏ vàng bạc. Ðó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, Tăng cử Tỳ-kheo itthan-nāma làm người liệng bỏ vàng bạc. Việc cử Tỳ-kheo itthannàma làm người liệng bỏ vàng bạc, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì hãy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cử làm người liệng bỏ vàng bạc, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.

Tỳ-kheo được Tăng cử, hãy đem vàng bạc liệng bỏ cho mất biệt, Tăng chẳng nên chỉ định chỗ liệng bỏ. Ðó là cách hợp thức hóa trong việc nầy.

* Sám hối tội kinh doanh tiền tệ.

Tỳ-kheo kinh doanh mua bán bằng tiền bạc dưới nhiều hình thức, phạm tội ưng xả đối trị. Tiền bạc ấy phải xả bỏ. Tiền bạc ấy gồm tiền giấy, tiền đồng, tiền vàng …

Tiền bạc do kinh doanh, phải xả bỏ trước Tăng và sám hối, Tăng ném bỏ tiền bạc ấy.

Phải xả bỏ như sau:

Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ rūpiyasaṃvo-hāraṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ. Imā’ haṃ saṅghassa nissajjāmi.

Bạch đại đức Tăng, tôi đã kinh doanh tiền bạc dưới nhiều hình thức, tiền bạc nầy thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ tiền nầy đến Tăng.

Sau khi xả bỏ tiền bạc, Tỳ-kheo hãy sám hối tội lỗi, và Tăng nên cử đại diện chứng tội bằng tuyên ngôn, mọi nghi thức đều giống như trước ở phần Tăng xử lý tội giữ y dư.

Tiền bạc đã được xả đến Tăng, Tăng nên cử người đem ném bỏ. Tuyên ngôn cử người ném bỏ tiền bạc, áp dụng giống như ở phần xử lý tội nhận lãnh vàng bạc vậy.

* Sám hối tội mậu dịch hàng hóa.

Tỳ-kheo làm mậu dịch trao đổi hàng hóa, dùng vật này trao đổi vật kia, thậm chí trao đổi y bát để lấy đồ dùng khác … đó gọi là hình thức mậu dịch, Tỳ-kheo phạm tội ưng xả đối trị. Hàng phẩm mậu dịch phải xả bỏ.

Có thể xả bỏ đến Tăng hoặc nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị khác.

Xả bỏ với Tăng, nói như sau:

Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ. Imā’ haṃ saṅ-ghassa nissajjāmi.

Bạch đại đức Tăng tôi đã mậu dịch hay hóa dưới nhiều hình thức, hàng này của tôi thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ vật này đến Tăng.

Xả bỏ vật rồi Tỳ-kheo hãy sám hối tội, Tăng nên cử đại diện để chứng tội sám hối, mọi nghi thức giống như ở phần Tăng xử lý tội giữ y dư.

Sau khi Tỳ-kheo đã sám hối, Tăng nên cho lại vật ấy, bằng tuyên ngôn như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajji idaṃ Itthannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ saṅ-ghassa nisaṭṭhaṃ. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅ-gho imaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của Tỳ-kheo Itthannāma thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma vật này.

Trường hợp xả bỏ hàng hóa đến nhóm hai, ba, vị Tỳ-kheo thì nói như sau:

Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ imā’ haṃ āyas-mantānaṃ nissajjāmi.

Bạch các Tôn giả, tôi đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của tôi thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ vật này đến các Tôn giả.

Tiếp đến là nghi thức sám hối, và một vị đại diện nhóm do tuyên ngôn đề cử sẽ chứng tội cho Tỳ-kheo sám hối, mọi cách thức làm giống như ở phần nhóm Tỳ-kheo xử lý tội giữ y dư.

Sau cùng nhóm Tỳ-kheo hãy tuyên ngôn cho lại Tỳ-kheo ấy vật đã xả, như sau:

Suṇantu me āyamantā ayaṃ itthannāmo bhik-khu nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajji idaṃ Itthannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ āyasman-tānaṃ nisaṭṭhaṃ. Yad’āyasmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadey-yuṃ.

Bạch chư Tôn giả, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của Tỳ-kheo Itthannāma thành vật ưng xả đã xả bỏ đến chư Tôn giả. Nếu đã hợp thời với chư Tôn giả, chư Tôn giả hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma vật nầy.

Trường hợp xả bỏ vật phạm tội đến một vị Tỳ-kheo khác, hãy nói như sau:

Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ imā’haṃ āyas-mato nissajjāmi.

Bạch Tôn giả, tôi đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của tôi thành vật ưng xả, tôi xả bỏ vật này đến Tôn giả.

Tiếp đến Tỳ-kheo ấy sám hối với vị đó. Xong rồi vị đó sẽ cho lại Tỳ-kheo ấy vật đã xả, nói như sau:

Imaṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại Tôn giả vật này.

DỨT PHÉP SÁM HỐI TỘI

-ooOoo-

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app