Chương 10 – Tăng Sự Trị Phạt Tội Tăng Tàng – Xử Lý Tội Phạm Không Che Giấu

TĂNG SỰ TRỊ PHẠT TỘI TĂNG TÀNG
(VUṬṬHĀNA)

Tội Tăng tàng (saṅghādisesāpatti) luật Ðức Phật chế có 13 điều trong giới bổn (pāṭimokkha); Tỳ-kheo phạm tội phải làm tăng sự theo luật mới đúng pháp, tội này không thể sám hối cách thông thường như các tội nhẹ khác.

Tăng sự trị phạt tội tăng tàng phải qua 3 giai đoạn: phạt biệt trú (parivāsadāna) phạt tự hối (mānattadāna), phục vị (abbhāna).

Ðối với vị Tỳ-kheo phạm tội không che giấu thời gian cách đêm, Tăng chỉ xử vị ấy hành phạt tự hối (mānatta) sáu đêm rồi phục vị (abbhāna).

Ðối với vị phạm tội có che giấu thời gian qua đêm thì tăng xử phạt vị ấy sống biệt trú (parivāsa) theo thời gian tương ứng với thời gian che giấu, sau đó mới cho phạt tự hối (mānatta), rồi phục vị (abbhāna).

Về tác pháp kiết ma trong tăng sự trị phạt tội tăng tàng phải là tứ bạch tuyên ngôn (ñatticattut-thakammavācā) không thể làm cách khác.

Về túc số Tăng chứng minh tăng sự vụ việc này, có hai trường hợp, tăng sự xử phạt biệt trú (parivāsa) và phạt tự hối (mānatta) cần túc số từ 4 vị Tỳ-kheo hoặc nhiều hơn; Riêng giai đoạn phục vị (abbhāna) nhất định phải có túc số từ 20 vị trở lên (không kể Tỳ-kheo can tội).

Trong thời gian chịu phạt biệt trú (parivāsa) hay hành tự hối (mānatta), vị Tỳ-kheo can tội ấy phải tuân theo các nguyên tắc luật lệ và phải chấp nhận mất các quyền lợi và quyền hạn của một vị Tỳ-kheo bình thường. Việc này vị Luật sư nên có trách nhiệm giải thích và hướng dẫn.

XỬ LÝ TỘI PHẠM KHÔNG CHE GIẤU

Vị Tỳ-kheo nào khi đã phạm tội, biết là phạm, có lòng tàm quý với lỗi lầm bèn tìm đến một vị Tỳ-kheo khác trình bày khai thật, nội trong ngày ấy, như thế gọi là tội không có che giấu. Trường hợp này Tăng không cần cho biệt trú (parivāsa), chỉ cho hành tự hối (mānatta) sáu đêm.

Cách thức Appaṭicchannamānanatta-kamma:

Ðương sự cầu xin Tăng cho hình phạt tự hối (Mānatta) rằng:

Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo [1] āpajjiṃ appaṭicchannāyo. So’ haṃ bhante saṅghaṃ samba-hulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi.

Ahaṃ bhante … pe … dutiyampi bhante saṅ-ghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi.

Ahaṃ bhante … pe … tatiyampi bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannā-naṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi”.

Bạch đại đức tăng, tôi dã phạm nhiều tội, không che giấu. Bạch đại đức Tăng, tôi đây xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu.

Bạch đại đức tăng … nt … lần thứ nhì.

Bạch đại đức tăng … nt … lần thứ ba.

Vị luật sư tuyên ngôn trình Tăng cho hình phạt mànatta đến Tỳ-kheo ấy như sau:

“Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ dadeyya. Esā ñatti.

“Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ appa-ṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ deti. Yass’ āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ, so tuṇh’assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ … pe .. Tati-yampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ … pe … so bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhu-no sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaticchannānaṃ chā-rattaṃ mānattaṃ khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi”.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, không che giấu. Vị ấy xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, không che giấu. Vị ấy xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu. Việc cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố sự việc đó.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi … nt … Lần thứ ba tôi tuyên bố sự việc đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu, Tăng đã cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.

Dứt tuyên ngôn, vị Tỳ-kheo ấy thọ pháp giữa Tăng như vầy:

Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi. (nói ba lần).
Tôi thọ trì hành phạt tự hối, tôi thọ trì pháp hành.

Trong thời gian thọ pháp, vị Tỳ-kheo hãy trình pháp mỗi ngày với Tăng hoặc một hoặc vài vị Tỳ-kheo, trình pháp như sau:

“Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ appaṭicchannāyo. So’ haṃ saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ‘ haṃ mānattaṃ carāmi. Vediyām’ ahaṃ bhante vedi-yatī’ ti maṃ saṅgho dhāretu”.

Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội, không che giấu. Tôi đây đã xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tăng đã cho tôi hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tôi đang thi hành hình phạt tự hối. Bạch quí ngài, tôi xin khai trình; mong Tăng hãy nhận cho tôi là người khai trình rồi”.

Mặt khác, khi đang thi hành pháp mànatta như thế, nếu có vị Tỳ-kheo khách tăng đến, đương sự cũng phải khai trình với vị đó. Trường hợp biết rõ vị Tỳ-kheo khách là người không thuận với mình, không tiện để khai trình thì hãy tuyên bố xả pháp hành rồi sau đó đến khuya hoặc gần sáng sẽ thọ trì lại với một hoặc vài vị Tỳ-kheo thích hợp. Lời xả pháp hành như sau:

Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi. (nói ba lần).
Tôi xả hình phạt tự hối, tôi xả pháp hành.

Sau khi đã trải qua đủ sáu đêm tự hối rồi, Tỳ-kheo ấy đáng được Tăng phục vị (abbhāna) cho trở lại phẩm cách bình thường.

Cách thức Appaṭicchanna – abbhāna-kamma:

Tỳ-kheo ấy đi đến Tăng túc số trên 20 vị và ngỏ lời xin Tăng phục vị xuất tội, như sau:

“Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ appaṭicchannāyo so’haṃ saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ‘ haṃ bhante ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi.

Ahaṃ bhante … pe … So’ haṃ ciṇṇamānatto dutiyampi bhante saṅghaṃ abbhā-naṃ yācāmi.

Ahaṃ bhante … pe … So’ haṃ ciṇṇa-mānatto tatiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi “.

Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội không che giấu, tôi đây đã xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tăng đã cho tôi hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Bạch quí Ngài, tôi đã chịu đủ hình phạt tự hối cầu xin Tăng phục vị. Bạch quí Ngài … nt … lần thứ hai, cầu xin tăng phục vị. Bạch quí Ngài … nt … lần thứ ba, cầu xin Tăng phục vị.

Tăng phục vị cho Tỳ-kheo ấy bằng tuyên ngôn như sau:

“Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ appa-ṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇa-mānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ abbhey-ya. Esā ñatti.

“Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ appa-ṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇa-mānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ abbheti. Yass’ āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno abbhānaṃ so tuṇh’ assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamat-thaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho … pe… tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho … pe … so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội không che giấu. Vị ấy đã xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu; Tăng đã cho hình phạt tự hối sáu đêm đến Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu. Vị ấy đã chịu đủ hình phạt tự hối nay cầu xin tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội không che giấu. Vị ấy đã xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu; Tăng đã cho hình phạt tự hối sáu đêm đến Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu. Vị đã chịu đủ hình phạt tự hối nay xin Tăng phục vị. Tăng phục vị Tỳ-kheo itthan-nāma.Việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố sự việc đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … lần thứ ba, tôi tuyên bố sự việc đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … thì nên nói ra. Tỳ-kheo itthannàma đã được Tăng phục vị. Tăng chấp nhận bởi thế im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app