XỬ LÝ TỘI PHẠM CHE GIẤU THỜI GIAN XÁC ÐỊNH
Tỳ-kheo phạm tội Tăng tàng rồi che giấu không khai ra, vì hổ ngươi, vì lầm tưởng, vì không có cơ hội … đến sau mới khai trình; tội ấy cần phải xử lý theo cách phạt biệt trú (parivāsa) đủ thời gian đã che giấu, mới cho hình phạt tự hối (mānatta) sáu đêm rồi phục vị (abbhāna). Ðây là cách xuất tội trường hợp nầy.
Nếu Tỳ-kheo đã che giấu mà nhớ rõ thời gian che giấu là bao lâu thì xử cho biệt trú theo thời gian đó.
Cách thức Paṭicchannaparivāsakamma:
Ðương sự xin Tăng cho biệt trú theo thời gian xác định như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo (1). So’ haṃ bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ (2) yācāmi.
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. Dutiyampi bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācāmi.
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. Tatiyampi bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācāmi .
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Bạch, tôi đây xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày.
Bạch, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Bạch, lần thứ hai tôi xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày.
Bạch, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Bạch, lần thứ ba tôi xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày.
Kế đến, Tăng cho pháp biệt trú đến Tỳ-kheo ấy, bằng cách thông qua tứ bạch tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ eka-happaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhik-khuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchan-nānaṃ ekāhaparivāsaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācati. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ deti. Yass’ āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāha-parivāsassa dānaṃ so tuṇhassa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho … pe … so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho .. pe .. so bhāseyya. Dinno saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāso. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo itthannàma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho pháp biệt trú một ngày đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng cho phép biệt trú một ngày đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Việc cho pháp biệt trú một ngày đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Lần thứ ba, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Pháp biệt trú một ngày đã được tăng cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
Tỳ-kheo ấy thọ pháp biệt trú giữa Tăng như sau:
Parivāsaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (nói ba lần)
Tôi xin thọ trì biệt trú, tôi xin thọ trì phận sự.
Sau khi đã thọ trì pháp biệt trú giữa Tăng Tỳ-kheo ấy phải trình pháp hành của mình với Tăng (trình bằng pāli hay ý nghĩa cũng được) như vầy:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So’haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So’ haṃ parivasāmi vediyām’ahaṃ bhante vediyatī’ ti maṃ saṅgho dhāretu.
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Tôi đây đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng đã cho tôi biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tôi đang biệt trú; bạch đại đức tăng, tôi khai trình; xin tăng nhận biết tôi khai trình rồi.
*
Trong thời gian biệt trú, Tỳ-kheo ấy phải sống riêng biệt với Tỳ-kheo khác, không được hưởng quyền lợi và quyền hạn như vị Tỳ-kheo bình thường, không được thụ lễ của vị khác (dù đó là đệ tử của mình), không được giáo giới, truyền giới, làm y chỉ cho ai … trong thời gian biệt trú nếu có vị Tỳ-kheo khách nào đến viếng thăm thì Tỳ-kheo ấy phải khai trình pháp hành của mình, nếu không thể khai trình với vị ấy được, vì bất đồng quan điểm … thì phải nguyện xả pháp để sau đó nguyện thọ lại với một vị Tỳ-kheo bạn. Lời nguyện xả như sau:
Parivāsaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (nói ba lần)
Tôi xả bỏ sự biệt trú, tôi xả bỏ pháp hành.
Ðó là cách thức biệt trú về tội phạm che giấu có thời gian xác định.
Chú thích:
(1) Nói rõ thời gian đã che giấu tội, thay đổi lời lẻ cho thích hợp. Nếu tội che giấu hai ngày thì nói là dvīhap-paṭicchannāyo, ba ngày là tīhappaṭicchannāyo, bốn ngày là catūhappaṭicchannāyo, năm ngày là pañcāhappaṭicchannāyo, sáu ngày là chāhappaṭicchannāyo, bảy ngày là sattaàhappa-ṭicchannāyo, tám ngày là aṭṭhāhappaṭicchannāyo, chín ngày là navaàhappaṭicchannāyo, mười ngày là dasāhappaṭicchannāyo, mười một ngày là ekadasāhappaṭicchannāyo, mười hai ngày là dvādasāhappaṭicchannāyo, mười ba ngày là terasāhappaṭic-channāyo, mười bốn ngày là catuddāsahappaṭicchannāyo, nửa tháng là pakkhappaṭicchannāyo, hơn nửa tháng là atirekapak-khappaṭicchannāyo, một tháng là māsappaṭicchannāyo, hơn một tháng là aṭirekamāsappaṭicchannāyo, một năm là saṃvac-charappaṭicchannāyo, hơn một năm là aṭirekasaṃvaccharap-paṭicchannāyo … luật sư phải hướng dẫn sắp đặt ngôn từ.
(2) Trình thời gian che giấu bao lâu thì phải xin thời gian biệt trú bấy lâu; che giấu hai ngày thì xin biệt trú hai ngày “dvīhaparivāsaṃ“, che giấu ba ngày thì xin biệt trú ba ngày “tīhaparivāsaṃ” … v.v… che giấu hơn một năm thì xin biệt trú hơn năm “atirekasaṃvaccharaparivāsaṃ” nên lập văn tự cho khế hợp. Tuyên ngôn trình Tăng để cho Tỳ-kheo can tội biệt trú, luật sư cũng phải chú ý lập văn tự phù hợp với lời xin của Tỳ-kheo về thời gian che giấu và thời gian biệt trú.
Cách thức Paṭicchanna – mānattakamma:
Vị Tỳ-kheo thọ biệt trú về tội phạm đã che giấu, khi đã đủ thời gian Tăng tuyên phạt thì vị ấy bước qua giai đoạn chịu tự hối sáu đêm (mānatta). Vị ấy phải tìm đến Tăng và xin hình phạt tự hối, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So’haṃ saṅghaṃ sambahulā-naṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapa-rivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So’ haṃ bhante parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante …pe… parivuṭṭhaparivāso dutiyampi bhante saṅghaṃ …pe… yācāmi. Ahaṃ bhante …pe… parivuṭṭhaparivāso tati-yampi bhante saṅghaṃ …pe… yācāmi.
Bạch đại đức Tăng, tôi đã phạm nhiều tội che giấu một ngày; tôi đã xin Tăng cho biết trú một ngày về những tội che giấu một ngày; Tăng đã cho tôi biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Bạch, tôi đây đã mãn biệt trú nay tôi xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày.
… Lần thứ hai, tôi xin tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày.
… Lần thứ ba, tôi xin tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày.
Tiếp đến chư Tăng phải cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo ấy, bằng cách thông qua tứ bạch tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekā-happaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi Ṣo parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ deti. Yass’ āyasmato khamati itthannā-massa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ so tuṇh’ assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno samba-hulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārat-taṃ mānattaṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo itthan-nāma về những tội che giấu một ngày. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày. Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Việc cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ nhì tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Hình phạt tự hối sáu đêm Tăng đã cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày; Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
Tỳ-kheo ấy thọ trì hình phạt tự hối giữa Tăng, như sau:
Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi. (nói ba lần).
Tôi thọ trì hình phạt tự hối, tôi thọ trì phận sự.
Tỳ-kheo hành Mānatta, mỗi ngày phải trình pháp với Tăng, nếu không trình gọi là làm hỏng sự hành pháp; lời trình như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So’haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpa-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So’ haṃ parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So’haṃ mānattaṃ carāmi. Vediyām’ahaṃ bhante vediyatī’ti maṃ saṅgho dhāretu.
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu một ngày. Tôi đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho tôi một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày; khi mãn biệt trú tôi đã xin Tăng sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày. Tôi đang hành pháp tự hối; bạch quí ngài tôi khai trình, mong chư tăng hãy nhận biết là tôi khai trình.
Nếu đang hành Mānatta, có duyên cớ phải tạm thời ngưng sự thực hành thì nguyện xả với một vài vị chứng minh, như sau:
Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (nói ba lần).
Tôi xả pháp hành tự hối, tôi xả phận sự.
Cách thức Paṭicchanna abbhānakamma:
Sau khi đã hành mānatta đủ sáu đêm rồi, Tăng nên phục vị cho Tỳ-kheo ấy. Cách thức như vầy, Tỳ-kheo ấy đi đến chỗ tăng hội, túc số trên 20 vị, đảnh lễ các vị cao hạ rồi ngỏ lời xin phục vị rằng:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So’haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adā-si. So’haṃ parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ samba-hulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārat-taṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So’ haṃ bhante ciṇṇamānatto saṅ-ghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante …pe… So’ haṃ ciṇṇamānatto dutiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante. pe. So’ haṃ ciṇṇamānatto tatiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi”.
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày; tôi đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho tôi một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày; khi mãn biệt trú tôi đã xin Tăng phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày; Tăng đã cho tôi hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày. Bạch, tôi đã tròn đủ thời gian tự hối, tôi xin Tăng phục vị … nt … Bạch, tôi đã tròn đủ thời gian tự hối, lần thứ nhì tôi xin Tăng phục vị … nt … Bạch, tôi đã tròn đủ thời gian tự hối, lần thứ ba tôi xin Tăng phục vị.
Tăng phục vị cho Tỳ-kheo ấy bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhā-naṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ itthannā-maṃ bhikkhuṃ abbheyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannaàmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhā-naṃ yācati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ ab-bheti. Yass’āyasmato khamati Itthannāmassa bhik-khuno abbhānaṃ so tuṇh’assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày. Vị ấy khi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đem tự hối về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã đủ thời gian tự hối nay xin Tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày. vị ấy khi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã đủ thời gian tự hối, nay xin Tăng phục vị. Tăng phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng phục vị rồi, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.