Nội Dung Chính
LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN BIỆT SẮC
HỎI ĐÁP
Hỏi 4.1: Một vị bồ tát (bodhisatta), kể cả đức Bồ tát Arimetteyya (Di Lặc), có phải là phàm phu không (puthujjana)? Nếu như Bồ tát Di Lặc cũng là một phàm phu giống như chúng ta, thì vào lúc ngài hạ sanh để trở thành Phật Di Lặc (Metteya Buddha), có sự khác nhau nào giữa những điều kiện để ngài thành Phật và chúng ta hay không?[64]
Đáp 4.1: Sự khác nhau đó là các ba la mật (Pārami) của ngài đã chín mùi, như trường hợp đức Phật Thích Ca của chúng ta khi còn là Thái tử Sĩ Đạt Đa vậy. Các vị Bồ tát như vậy sẽ phải trau dồi các ba la mật của họ trong nhiều kiếp sống. Có mười ba la mật là:
Bố thí (dāna)
Trì giới (sīla)
Xuất gia (nekkhamma)
Trí tuệ (paññā)
Tinh tấn (vīiya)
Nhẫn nại (khantī)
Chân thật (sacca)
Quyết định (adhiṭṭhāna)
Tâm từ (mettā)
Tâm xả (upekkhā)
Khi các ba la mật này chín mùi, chúng sẽ thúc đẩy bồ tát từ bỏ thế gian, cho dù họ đang hưởng thụ các dục lạc. Trong kiếp cuối của mình, một vị bồ tát phải lấy vợ và có một người con trai; đây là một quy luật tự nhiên. Tôi đã quên tên vợ và con của đức bồ tát Di Lặc rồi. Theo Tam tạng Nguyên thủy (Theravāda Tipika), thì đó là kiếp chót của ngài, vì không có vị A-la-hán nào, kể cả đức Phật, còn tái sanh sau khi Bát Niết-bàn (Parinibbāna) cả. Sự Diệt Độ hay Bát Niết-bàn của các ngài là sự chấm dứt của vòng tử sanh luân hồi. Các ngài sẽ không phải tái sanh ở đâu nữa.[65]
Lấy trường hợp đức bồ tát Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) của chúng ta để ví dụ. Trong kiếp chót của ngài, trước khi giác ngộ ngài cũng là một phàm nhân. Như thế nào? Năm tròn mười sáu tuổi, ngài trở thành thái tử Sĩ Đạt Đa và cưới công chúa Daduđàla (Yasodharā). Họ có một con trai là La hầu la. Ngài cũng hưởng thụ dục lạc trong hơn mười ba năm. Mặc dù ngài không có năm trăm thiên nữ bên tay trái và năm trăm thiên nữ bên tay phải của mình như các vị chư thiên, nhưng lại được vây quanh bởi hai mươi ngàn cô công chúa. Đây là kāmasukhallikanuyogo – thọ hưởng dục lạc, đắm chìm trong dục lạc.
Sau khi từ bỏ những dục lạc ấy, ngài hành khổ hạnh trong khu rừng Uruvela (Ưu lâu tần loa). Sau sáu năm khổ hạnh vô bổ, ngài cũng từ bỏ pháp hành này, và hành theo trung đạo, không bao lâu sau thì đạt đến giác ngộ viên mãn. Sau khi giác ngộ, trong bài pháp đầu tiên của mình, “Dhamma cakkapavattana” – Chuyển Pháp Luân, Ngài tuyên bố:
Kāmesu kāmasukhallikanuyogo hīo, gammo, puthujjaniko, anariyo, anatthasaṁhito.
Sự thụ hưởng dục lạc này là thấp hèn (hīno), là pháp hành của hàng dân dã (gammo), pháp hành của hàng phàm phu (puthijjaniko).
Đó là pháp hành của hàng chưa giác ngộ, phi thánh nhân (anariyo), không đem lại lợi ích (anatthasaṁhito).
Điều này có nghĩa, sự thụ hưởng dục lạc không phải là pháp hành của các bậc giác ngộ. Và dục lạc là vô bổ (không lợi ích) vì mặc dù chúng đem lại những lợi ích thế gian, chẳng hạn như hạnh phúc ở cõi người, và hạnh phúc ở các cõi phạm thiên (brahma), song chúng lại không đem lại lợi ích siêu thế, đó là hạnh phúc của Niết-bàn, trạng thái mà chúng ta chỉ có thể thụ hưởng bằng Đạo – Quả Tuệ.
Vì vậy, trong bài pháp đầu tiên của Ngài, đức Phật công bố rằng bất luận ai hưởng dục đều là phàm phu cả. Khi còn là một vị bồ tát, ngài cũng đã thụ hưởng dục lạc, đó là chung sống với Daduḍāla trong hoàng cung. Vào lúc ấy, ngài cũng là một phàm nhân, vì sự hưởng thụ dục lạc là pháp hành của kẻ phàm phu.
Điều này không chỉ dành cho đức bồ tát của chúng ta thôi, mà cho tất cả các vị bồ tát. Có thể có nhiều vị là bồ tát ở đây, trong số thính chúng này. Qúy vị nên suy xét vấn đề này thật cẩn thận: những vị bồ tát ở đây là phàm nhân hay các bậc thánh nhân (ariya)? Tôi nghĩ là qúy vị có thể biết được câu trả lời rồi.
Hỏi 4.2: Sau khi hoàn tất khoá thiền, một hành giả có thể đắc Đạo Tuệ (Maggañāṇa) và Quả Tuệ (Phalañāṇa) không? Nếu không, vì sao không?
Đáp 4.2: Hành giả có thể đắc, song còn tùy vào các ba la mật của họ. Hãy lấy trường hợp của Ngài Bāhiya Dāruciriya[66] làm điển hình. Vị này đã hành Chỉ-Quán (Samatha-Vipassanā) đến hành xả trí (sankhārupekkhāñāṇa) trong thời kỳ giáo pháp đức Phật Ca Diếp (Kassana). Trải qua hai mươi ngàn năm thực hành, nhưng Ngài không đắc một Đạo Quả Tuệ nào cả, vì Ngài đã được đức Phật Padumuttara (Thượng Liên Hoa Phật) thọ ký. Chính vì thế Ngài sẽ trở thành vị Khippābhiññā tức là vị sẽ tốc chứng A-la-hán thánh quả trong thời kỳ giáo pháp đức Phật Thích Ca. Do đó, các ba la mật của Ngài chỉ vào lúc ấy mới chín mùi[67]. Các vị thanh văn đệ tử khác đắc tứ tuệ phân tích (Patisambhidā ñāṇa) trong thời kỳ giáo pháp đức Phật Thích Ca cũng vậy, tức là họ phải hành Chỉ-Quán cho đến hành xả trí trong thời kỳ giáo pháp của các vị Phật trước; đây là một quy luật tự nhiên. Tứ tuệ phân tích gồm:
- Tuệ phân tích về ý nghĩa hay còn gọi là Nghĩa Vô Ngại Giải (attha paṭisambhidā ñāṇa) Đây là một loại tuệ minh sát về quả, tức minh sát khổ thánh đế.
- Tuệ phân tích về pháp hay còn gọi là Pháp Vô Ngại Giải (Dhamma paṭisambhidā ñāṇa). Đây là một loại tuệ minh sát về nhân, tức minh sát khổ tập thánh đế hay thánh đế về nhân sanh của khổ.
- Tuệ phân tích về việc chế định ngôn ngữ hay còn gọi là Từ Vô ngại Giải (Ninutti paṭisambhidā ñāṇa). Đây là tuệ biết về văn phạm, đặc biệt là văn phạmPāli.
- Tuệ phân tích về các loại trí hay còn gọi là Biện Tài (ứng biện) Vô Ngại Giải (Paṭibhāna paṭisambhidā ñāṇa), tức là tuệ minh sát biết rõ ba loại tuệ phân tích kể trên.
Có năm nhân khiến thành tựu Tứ Tuệ Phân tích này:
1) Chứng đắc (adhigama) – chứng A-la-hán thánh đạo và A-la-hán thánh quả, hoặc bất kỳ đạo quả nào khác.
2) Tinh thông kinh điển (pariyatti) – học và hiểu rõ pháp học.
3) Nghe (savana) – lắng nghe giảng pháp một cách chăm chú và kính trọng.
4) Hỏi (parupuccha) – luận bàn những đoạn khó và những lời giải thích chưa thấu đáo trong kinh và chú giải.
5) Tiền nỗ lực (pubbayoga) – thực hành Chỉ-Quán cho đến hành xả trí (sankhārupekkhā ñāṇa) trong thời kỳ giáo pháp của các vị Phật trước.
Nếu hành giả nào thực hành trong thời kỳ giáo pháp này mà không đạt đến Niết-bàn, có thể là vì các Ba-la-mật của họ chưa chín mùi. Lý do cũng có thể là họ đã nhận được lời thọ ký xác định nơi một vị Phật quá khứ, hoặc đã phát nguyện giải thoát sanh tử luân hồi (saṃsāra) trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật tương lai, như thời kỳ giáo pháp của đức Phật Di – Lặc chẳng hạn. Ví dụ như có hai ngàn vị tỳ khưu ni, tất cả đều là A-la-hán bậc thường, đã nhập Niết-bàn cùng một ngày với Yasodara (Daduḍāla – cũng là một thánh ni A-la-hán). Vì sao? Trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật Dìpaíkara (Nhiên Đăng) họ đã phát nguyện được giải thoát tử sanh luân hồi trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật Thích Ca, tức là cách bốn A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp sau. Để trở thành một vị thánh A-la-hán bậc thường không đòi hỏi người đó phải trau dồi các Ba-la-mật lâu như vậy, song hai ngàn vị tỳ khưu ni này đã phải ở lại trong vòng sanh tử luân hồi thời gian lâu dài đến như vậy chỉ là vì nguyện lực của họ, chứ không phải vì một lời thọ ký xác định.
Hỏi 4.3: Một hành giả đã hoàn tất khóa thiền, nhưng vẫn chưa đạt đến đạo tuệ (maggañāṇa) và quả tuệ (phalāñāṇa), nếu định của người ấy thối thất thì minh sát tuệ của người ấy cũng sẽ thối thất luôn có phải không? Như vậy người ấy có thể bị sanh vào các ác đạo (apāya: địa ngục, ngạ qủy, súc sanh, …) không?
Đáp 4.3: Minh sát tuệ của người ấy có thể cũng sẽ thối thất, song điều đó rất hiếm. Nếu người ấy không duy trì pháp hành trong một thời gian lâu, thì Chỉ-Quán (samatha-vipassanā) của họ có thể từ từ suy yếu đi. Tuy nhiên, nghiệp lực vẫn tồn tại như một lực ngủ ngầm.
Trong chú giải kinh điển Pāli[68] có dẫn chứng một trường hợp. Sự kiện xảy ra ở Sri Lanka (Tích Lan). Có khoảng ba mươi vị tỳ khưu và sa-di (Samāneras) đi đến đảnh lễ ngôi đại tháp (xá lợi) tại Kalyāṇī, khi họ trên đường mòn xuống núi để vào lộ chính, họ gặp một người đàn ông ngược chiều đang đi lên. Người đàn ông này làm nghề đốt than, người ông ta nhem nhuốc với tro than, thậm chí cái khố vàng duy nhất mà ông mang cũng lấm lem lấm luốc, bởi thế trông ông chẳng khác gì một cây than đen. Sau khi làm xong công việc hàng ngày của mình, ông lượm một bó củi than cháy không hết rồi theo đường mòn đi lên, với tóc tai dài đến tận lưng, và đứng đối diện với các vị tỳ khưu.
Mấy chú sa-di trông thấy ông, nói đùa với nhau “Cha ông đó, ông nội ông đó, chú ông đó, phải không?” rồi họ cười lớn khi đi xuống. Một người hỏi “Này cư sĩ, tên ông là gì?” Nghe hỏi đến tên mình, người đàn ông cảm thấy hổ thẹn, đặt gánh củi xuống và sửa soạn lại y phục, ông cung kính chào vị trưởng lão (Mahāthera) với ý định cầm chân ngài lại một lát.
Các vị tỳ khưu đứng chờ, nhưng mấy chú sa-di đi đến và cười lớn ngay cả trước mặt vị trưởng lão. Người đàn ông nói với Mahāthera: “Bạch ngài, có phải các ngài cười khi trông thấy con không? Các ngài nghĩ rằng mình hoàn thành đời xuất gia của một vị tỳ khưu chỉ bằng y áo đó sao. Thế nhưng các ngài vẫn chưa đạt đến sự nhất tâm đấy! Trước đây con cũng là một sa môn như các ngài, và con còn rất nổi tiếng với những năng lực thần thông trong giáo pháp này nữa đấy. Đối với con, hư không như đất và đất giống như hư không, xa như gần và gần như xa vậy. trong một khoảnh khắc, con có thể thâm nhập vào một trăm ngàn hệ thống thế gian (thái dương hệ). Vậy mà bây giờ các ngài xem tay của con đây! Giờ nó chẳng khác gì tay của con khỉ.”
Rồi chỉ vào một thân cây, ông nói tiếp, “Ngồi dưới gốc cây ấy con đã từng lấy tay sờ mặt trăng và mặt trời. Con còn ngồi với mặt trăng và mặt trời, xem nó như đất để chà chân vậy. Những năng lực thần thông của con là như vậy, nhưng do dễ duôi mà giờ đây chúng không còn nữa. Chớ nên dễ duôi! Do dễ duôi người ta đi đến bại hoại như thế này đấy. Chỉ những ai sống một cách tích cực mới đoạn tận được sanh, già, chết. Do đó, hãy lấy con làm bài học, và đừng có xao lãng việc hành các thiện pháp thuộc Chỉ-Quán (samatha-vipassanā). Hãy cố gắng tinh tấn, bạch các ngài!”
Như vậy, ông vừa khuyên vừa cảnh giác họ. Kinh cảm trước những lời của ông ta, ngay tại chỗ ấy, ba mươi vị tỳ khưu hành Chỉ-Quán và đắc A-la-hán thánh quả. Do đó Chỉ-Quán nhất thời có thể bị thối thất do dễ duôi (pamāda), nhưng sức mạnh của nghiệp vẫn tồn tại.
Có bốn loại người đạt đến Niết-bàn. Loại thứ nhất là Độc Giác Phật (Paccekabuddha), ở đây chúng ta sẽ không đề cập đến. Ba loại còn lại là: (1) một vị bồ tát, (2) một vị thượng thủ thanh văn (agga sāvaka), (3) một vị đại thanh văn (mahā sāvaka), và (3) vị thanh văn thường (pakati sāvaka).
1) Đức Bồ tát của chúng ta, trong thời kỳ của đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṅkara) đã đắc tám thiền chứng (samā paññatti) và năm thần thông hiệp thế (ngũ thông). Trong các kiếp quá khứ, Ngài cũng đã hành Chỉ-Quán đến “Hành xả tuệ” (Sankhārupekkhāñaṇa). Nếu Ngài thực sự muốn đắc Niết-bàn, Ngài có thể đắc một cách nhanh chóng, do nghe một bài kệ ngắn mà đức Phật Nhiên Đăng thuyết về Tứ Thánh Đế. Nhưng ngài không chỉ mong mỏi Niết-bàn, mà muốn phát nguyện thành Phật trong tương lai, nên sau đó ngài nhận được lời thọ ký xác định của đức Phật Nhiên Đăng.
Trong suốt bốn A-tăng-kỳ (asaṅkkheyya) và một trăm ngàn đại kiếp (kappa), tức là từ thời đức Phật Nhiên Đăng cho đến thời kỳ đức Phật Ca Diếp (Kassapa), đức Bồ tát của chúng ta đã thọ giới làm tỳ khưu chín kiếp, mỗi lần đều được một vị Phật huớng dẫn. Trong mỗi kiếp làm tỳ khưu, việc học tập của đức Bồ tát gồm bảy loại pháp hành.[69]
- Học thuộc lòng Tam Tạng (Tipiṭakaṁ Buddhavacanaṁuggaṁ hitvā)[70]
2. Thanh tịnh trong bốn loại giới (Catu pārisuddhi sīle supatiṭṭhāya)[71]
3. Mười ba pháp hành đầu đà (Terasa dhutaṅgāni samādāya)
4. Luôn luôn hành hạnh đầu đà trú trong rừng (araññañaṁ pavisitvā)[72]
5. Tám thiền chứng (aṭṭha samāpattiyo)
6. Năm thần thông hiệp thế (pañca abhiñña)
7. Hành minh sát cho đến Thuận Thứ Tuệ (Vipassanaṁ vaḍḍhatvā yāva anulomaññanaṁ)[73]
Những Ba-la-mật (Pāramis) này cần phải được hoàn tất để chứng đắc Nhất thiết Trí (sabbaññutañaṇa) Nhưng trước khi các ba-la-mật chín mùi, tức là từ lúc được thọ ký cho đến lúc sinh làm Thái tử Sĩ – Đạt – Đa, đức Bồ tát của chúng ta có khi cũng tái sinh vào cảnh giới súc sanh do bất thiện nghiệp đã tạo từ những kiếp trước. Tuy nhiên, những kiếp làm tỳ khưu và những kiếp làm súc sinh rất xa nhau. Đây là điều tự nhiên khi còn làm Bồ tát vậy.
2) Một số vị Thượng thủ Thanh văn (Agga sāvaka) cũng phải được thọ ký xác định, chẳng hạn như tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên được đức Phật Anomadassì thọ ký. Hơn nữa, các vị đại thanh văn (mahā sāvaka) đôi khi cũng phải được thọ ký, như tôn giả Ānanda và tôn giả Kassapa được đức Phật Padumuttara (Thượng Liên Hoa) thọ ký. Trong thời đức Phật của chúng ta, tất cả những bậc thanh văn đệ tử này đều trở thành những bậc A-la-hán có tứ tuệ phân tích (xem lại câu trả lời 4 – 2). Những vị A-la-hán này cũng sẽ phải thiện xảo trong lãnh vực Chỉ-Quán cho đến Hành Xả Tuệ, vào thời của các vị Phật trước; đây là một định luật cố nhiên. Từ lúc được thọ ký cho đến thời kỳ đức Phật của chúng ta, một số vị trong họ đôi khi cũng phải tái sinh vào một trong bốn ác đạo – địa ngục, ngạ qủy, súc sinh, và Atula – do những bất thiện nghiệp, như chúng ta thấy có những kiếp họ cùng làm thú với đức Bồ tát. Đây là điều tự nhiên của một vị thượng thủ thinh văn hoặc một vị đại thinh văn.
3) Còn về các vị đệ tử thinh văn bậc thường, nếu họ đã hành Chỉ-Quán một cách hết lòng và đạt đến các tuệ như Tuệ Nắm bắt Nhân Duyên (paccaya – pariggaha ñaṇa) hoặc Sanh Diệt Tuệ (udayabba nāṇa), hoặc Hành Xả Tuệ (saṅkhārupekkha ñāṇa), họ sẽ không phải tái sinh vào một trong bốn ác đạo (apāya) sau khi chết, mặc dù trong kiếp hiện tại có thể họ không đắc đạo quả nào cả. Điều này đã được Thanh Tịnh Đạo giải thích:
… laddhassāso laddhapatiṭṭho niyatagatiko cūḷasotāpanno nāma hoti
(… vị đã tìm được sụ giảm khinh (khổ đau) trong Giáo Pháp của đức Phật, vị đã tìm được nơi an ổn, đã có được một sanh thú chắc chắn, tốt đẹp, vì thế vị ấy được gọi là một vị Tiểu Nhập Lưu (cūḷa sotapanna)
Như vậy bậc Tiểu Nhập Lưu có thể được tái sanh vào cảnh giới chư thiên, nơi đó có bốn điều cĩ thể xảy ra. Trong “Sotānugata Sutta“[74] (kinh “Người Nghe Kinh”) đức Phật dạy:
- Nếu bậc Tiểu Nhập Lưu, ngay khi vừa tái sanh thiên giới, liền suy tư trên Pháp (dhamma), Pháp này sẽ hiện rõ trong minh sát trí của vị ấy, và vị ấy có thể đắc Niết-bàn một cách nhanh chóng.
- Nếu vị ấy không đạt đến Niết-bàn do suy tư trên Pháp với minh sát trí như vậy, vị ấy có thể đắc Niết-bàn do nghe một vị tỳ khưu có thần thông, và đi lên thiên giới giảng pháp.
- Nếu không có cơ hội nghe pháp nơi một vị tỳ khưu, vị ấy có thể có cơ hội nghe pháp từ các chư thiên pháp sư (dhamma – kathika deva), như phạm thiênSanankumāra, v.v… và đắc Niết-bàn do nghe pháp ấy.
- Nếu không có cơ hội nghe pháp nơi các vị chư thiên pháp sư, vị ấy có thể có cơ hội gặp bạn bè đã từng là thiện hữu hành giả trong kiếp quá khứ ở thiên giới trong thời kỳ giáo pháp của một vị Phật nào đó. Những vị thiện hữu hành giả ấy có thể nhắc, chẳng hạn như: “Này bạn, hãy nhớ đến pháp thế này, thế nọ mà chúng ta đã từng hành trong nhân giới đi!” Lúc ấy, vị này có thể nhớ đến pháp (dhamma) và nếu thực hànhvipassanā, vị ấy có thể đắc Niết-bàn nhanh chóng.
Một trường hợp điển hình về một vị Tiểu Nhập Lưu được tái sanh thiên giới và sau đó đã đắc Niết-bàn rất nhanh ở đấy, là tôn giả Samaṇa – devaputta (Sa môn Thiên tử). Ngài là một vị tỳ khưu đã hành Chỉ-Quán một cách nhiệt tâm. Ngài chết trong lúc đang hành thiền và được hóa sanh thiên giới. Không biết mình đã chết, ngài tiếp tục hành thiền trong tòa lâu đài của mình trên thiên giới. Khi các thiên nữ trong tòa lâu đài ấy thấy ngài, họ hiểu rằng ngài ắt hẳn phải là một vị tỳ khưu trong kiếp trước, do đó họ đặt một tấm gương trước mặt ngài và làm ồn lên (cho ngài biết). Nghe tiếng ồn, ngài mở mắt và trông thấy mình trong gương. Ngài cảm thấy rất thất vọng vì không muốn làm một vị chư thiên, ngài chỉ muốn Niết-bàn.
Vì thế mà ngay lập tức ngài đi xuống gặp đức Phật để nghe pháp. Lúc ấy đức Phật đang thuyết pháp về Tứ thánh Đế. Sau khi nghe pháp, Samaṇa – devaputta đắc nhập lưu thánh đạo và nhập lưu thánh quả.[75]
Như vậy, khi một vị thinh văn bậc thường hành Chỉ-Quán rất nhiệt tâm, đắc được tuệ nắm bắt nhân duyên, tuệ sanh diệt, hoặc tuệ hành xả, mặc dù vị ấy có thể không đắc một đạo quả nào trong kiếp này, công việc thực hành mà vị ấy đã làm báo trước rằng vị ấy rất có thể sẽ đạt đến chúng vào một kiếp nào đó trong tương lai.
Vào lúc chết, một vị hành giả có thể không có năng lực Chỉ hoặc Quán mạnh mẽ, song do thiện nghiệp hành Chỉ-Quán kiên trì, một tướng (nimitta) tốt sẽ xuất hiện tại ý môn của vị ấy. Cái chết có thể xảy ra với tướng tốt ấy làm đối tượng, nhất là do thiện nghiệp này, chắc chắn vị ấy sẽ đi đến một nơi an vui, và có thể đắc Niết-bàn ở đó.
Tuy nhiên, nếu vị ấy hành Vipassanā (quán) cho đến những sát – na của tốc hành tâm cận tử (maraṇāsanna javana), vị ấy sẽ thuộc loại người đầu tiên mà kinh “Sotānugata” đề cập, tức ngay khi vừa tái sinh thiên giới, vị ấy liền suy tư trên pháp, thì có thể sẽ đắc Niết-bàn nhanh chóng.
Hỏi 4.4: Liệu một hành giả đã hoàn tất khóa thiền, nhưng chưa đạt đến Niết-bàn, có thể đắc Pháp Trú Trí (dhammaṭṭhiti ñāṇa) hay không? Nếu đắc, trí ấy có thối chuyển không?
Đáp 4.4: Hành giả có thể đắc trí ấy.
Pubbe kho susīma dhammaṭṭhiti ñāṇa pacchā nibbāne ñāṇa
(Pháp Trú Trí (dhammaṭṭhiti ñaṇa) phải đến trước, sau đó Đạo Trí (tuệ) mới đến lấy Niết-bàn làm đối tượng vậy.)
Đây là nguyên văn lời giải thích của đức Phật cho tỳ khưu Susīma[76]. Susīma trước đây là một du sĩ ngoại đạo (paribhājaka), ông xuất gia (tỳ khưu) để “trộm” pháp. Nhưng đức Phật thấy rằng ông sẽ đắc Niết-bàn trong một vài ngày nữa nên chấp nhận cho ông xuất gia.
Susīma nghe nói rằng có nhiều vị A-la-hán đi đến đức Phật và báo rằng họ đã đắc A-la-hán thánh quả. Vì vậy ông hỏi họ xem họ có đắc tám thiền chứng và ngũ thông không? Họ đáp “không”. “Nếu các vị không có tám thiền chứng và ngũ thông, các vị đắc thánh quả A-la-hán bằng cách nào?” Lúc đó các vị tỳ khưu trả lời “paññāvimuttā kho mayaṁ āvuso susīma” “Này hiền giả Susīma, chúng tôi được giải thoát khỏi phiền não và đắc A-la-hán thánh quả bằng cỗ xe thuần quán (suddha – vipassanā yānika)”. Susìma không hiểu điều này, vì thế ông đã hỏi đức Phật câu hỏi như trên và đức Phật trả lời:
“Này Susīma, Pháp Trú Trí phải đến trước rồi sau đó đạo tuệ mới đến lấy Niết-bàn làm đối tượng vậy.”
Điều này nghĩa là thế nào? Đạo Tuệ không phải là kết quả của tám thiền chứng và ngũ thông, mà nó là kết quả của các minh sát trí. Vì thế Đạo Tuệ chỉ có thể khởi lên sau khi các minh sát tuệ đã khởi lên. Trong “Kinh Susīma“, tất cả các minh sát tuệ đều ám chỉ đến Pháp Trú Trí. Pháp Trú Trí là minh sát trí về tính chất vô thường, khổ và vô ngã của các Hành, tức các pháp hữu vi (saṅkhāra dhamma), đó là: Danh, Sắc, và các nhân của chúng, đây là lý do vì sao Pháp Trú Trí đến trước, rồi Đạo Trí lấy Niết-bàn làm đối tượng đến sau.
Sau đó, đức Phật thuyết cho Susīma nghe một bài pháp về Tam Luân[77] (teparivaṭṭa dhamma – desanā), kinh này cũng giống như Kinh Vô Ngã Tướng “Anattalakkhaña sutta“[78]. Khi bài pháp vừa dứt, Susìma cũng đắc A-la-hán quả, mặc dù ông không có tám thiền chứng và ngũ thông chi cả. Nghĩa là vào lúc đó, ngài hiểu rõ ý nghĩa bài pháp của đức Phật , và trở thành một vị theo cỗ xe thuần quán.
Nếu một hành giả đắc Pháp Trú Trí, thì dù không đắc Niết-bàn trong kiếp hiện tại, minh sát trí của họ cũng sẽ không thối giảm. Nghiệp lực Minh sát ngủ ngầm của vị này vẫn có đủ sức mạnh. Nếu vị ấy là một vị thanh văn bậc thừơng, có thể vị ấy sẽ đắc Niết-bàn trong kiếp kế.
Hỏi 4.5: Hành giả có thể đắc các pháp siêu thế chỉ với cận định không?[79]
Đáp 4.5: Được. Ở mốc cận định cũng có ánh sáng rực rỡ và tỏa chiếu. Với ánh sáng ấy, hành giả có thể phân biệt các tổng hợp sắc (rūpa – kalāpa), danh chân đế, sắc chân đế, và các nhân của chúng. Lúc đó hành giả có thể tiếp tục thiền minh sát theo từng giai đoạn.
Hỏi 4.6: Liệu chỉ với sát-na định (khanika samādhi) người ta có thể hành niệm thọ (vedanārupassanā satipatthanā) để đạt các pháp siêu thế được không?
Đáp 4.6: Ở đây chúng ta cần xác định cái gọi là sát-na định đã. Thế nào là sát-na định? Có hai loại sát-na định:
– Sát-na định trong thiền chỉ (samātha)
– Sát-na định trong thiền quán (vipassanā)
Sát-na định trong thiền chỉ đặc biệt muốn nói đến định vốn lấy tợ tướng (patibhāga nimitta) làm đối tượng, như tợ tướng hơi thở (ānāpānā patibhāga nimitta) chẳng hạn. Nó là loại định đi trước cận định, và dành cho vị hành giả theo cỗ xe tịnh chỉ (samatha yānika).
Đối với vị hành giả theo cỗ xe thuần quán (suddha vipassanā yānika) có một loại sát-na định khác. Một vị thuần quán thừa hành giả thường thường phải bắt đầu với thiền tứ đại để đạt đến cận định hay sát-na định, và thấy các tổng hợp sắc (rūpa kalāpas), cũng như tứ đại trong một tổng hợp sắc. Thanh Tịnh Đạo nói rằng đó là cận định. Song phụ chú giải (sớ giải) của bộ Luận này (TTĐ) thì cho rằng đó chỉ là phép ẩn dụ, chứ không phải cận định thực thụ, bởi vì cận định thực thụ là đã gần với định của bậc thiền rồi.
Nhưng Jhāna (bậc thiền) không thể nào đắc được với loại thiền tứ đại. Khi hành giả có thể thấy được bốn đại trong một tổng hợp sắc riêng biệt thì đã có định sâu. Mặc dù vậy, hành giả cũng không thể đắc thiền nhờ dùng chúng (tứ đại) làm đối tượng được. Có hai lý do để giải thích điều này.
– Để thấy được tứ đại trong các tổng hợp sắc riêng biệt, tức là thấy sắc chân đế (paramattha rūpa), và để thấy sắc chân đế thì thực là thâm sâu vô cùng. Hành giả không thể nào đắc thiền (jhāna) với thực tại cùng tột (paramattha) làm đối tượng được.
– Hành giả không thể định sâu trên tứ đại trong các tổng hợp sắc riêng biệt bởi vì các tổng hợp sắc diệt ngay khi chúng vừa sanh. Điều đó có nghĩa rằng vì đối tượng luôn luôn thay đổi, cho nên hành giả không thể đắc thiền với một đối tượng luôn luôn thay đổi như vậy được.
Như vậy, vì thiền tứ đại không tạo ra jhāna (bậc thiền), nên chúng ta có thể hiểu rằng cận định vốn lấy tứ đại trong các tổng hợp sắc riêng biệt làm đối tựơng sẽ không phải là cận định thực thụ, mà chỉ là sát-na định thôi.
Đến đây chúng ta sẽ bàn đến sát-na định trong thiền minh sát. Điều này đã được nói đến trong phần niệm hơi thở (ānāpānāsati) của bộ Thanh Tịnh Đạo[80].
Ở đây hành giả nên biết rằng sát-na định minh sát là thấy một cách triệt để tính chất vô thường, khổ, vô ngã của Danh-sắc chân đế và các nhân của chúng. Không thấy Danh-sắc chân đế và các nhân của chúng có thể nào có sát-na định được không? Điều đó không thể được.
Khi một chỉ thừa hành giả muốn hành minh sát, trước đó đã đắc thiền hơi thở (ānāpāna) thì nhập vào sơ thiền. Đây là Chỉ (samatha). Vị ấy xuất khỏi thiền này và phân biệt ba mươi bốn tâm hành của sơ thiền, rồi phân biệt vô thường, khổ, vô ngã bằng cách thấy tính chất sanh diệt của các pháp thuộc thiền ấy (jhāna dhamma). Đối với nhị thiền, v.v… hành giả cũng làm theo cách tương tự.
Vào lúc phân biệt như vậy vẫn có định. Với định này hành giả tập trung vào tính chất vô thường, khổ, và vô ngã của các pháp thiền đó. Định của hành giả lúc ấy cũng thâm sâu, và không đi đến các đối tượng khác. Đây là sát-na định, bởi vì đối tượng chỉ tồn tại nhất thời; ngay khi sanh lên, nó diệt liền tại đó.
Cũng vậy, khi hành giả đang hành minh sát để thấy ra hoặc là tính chất vô thường, khổ hoặc vô ngã của Danh-sắc chân đế và các nhân của chúng, thì tâm hành giả thường không rời đối tuợng. Có thể nói tâm hành giả lúc ấy đã chìm sâu vào một trong tam tướng (vô thường – khổ – vô ngã). Đây cũng gọi là sát-na định.
Nếu hành giả có thể thấy danh sắc chân đế và các nhân của chúng một cách triệt để và rõ ràng, mà trước đó không hành thiền chỉ, thì dĩ nhiên, đối với hành giả việc hành thiền chỉ là không cần thiết. Bằng không, hành giả phải tu tập một trong những đề mục thiền chỉ, và phát triển một mức độ định vừa đủ để có thể thấy được danh sắc chân đế và các nhân của chúng.
Tuy nhiên, trong kinh Samādhi (Định kinh), một bài kinh thuộc Tương Ưng Bộ, đức Phật có nói:
Samādhim bhikkave bhāvetha, samāhita bhikkave bhikkhu yathābhūtam pajānāti.
(Hãy tu tập định, này các tỳ khưu, sau khi tu tập định, vị tỳ khưu sẽ tuệ tri các Pháp như chúng thực sự là – yathābhūtam pajānati)
Do đó, hành giả nên tu tập định để tuệ tri năm uẩn, các nhân và sự diệt của chúng; hành giả nên tu tập định để tuệ tri tính chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Còn sự diệt của chúng có thể hành giả sẽ thấy vào lúc đắc A-la-hán thánh đạo và Bát Niết-bàn (Parinibhāna)
Cũng trong Kinh Samādhi (Định) thuộc “Tương Ưng Sự Thực” (Sacca Samyutta). Đức Phật dạy hành giả nên tu tập định để tuệ tri Tứ Thánh Đế.
Như vậy, nếu vị hành giả muốn phân biệt chỉ cảm thọ thôi (quán thọ), hành giả cần biết rõ về những sự kiện đã được đức Phật giải thích sau đây:
Sabbaṁ, bhikkhave,
Anabhijānam aparijānaṁ virājayaṁ appajahaṁ abhabbo dukkhakkhayāya …
Sabbanca kho, bhikkhave,
Abhijānam parijanaṁ virājayaṁ pajahaṁ bhabbo dukkhakkayāya.
(Này các tỳ khưu, Nếu một vị tỳ khưu không biết rõ tất cả Danh-sắc, và các nhân của chúng với ba loại đạt tri (parinna)[81], vị ấy không thể đạt đến Niết-bàn. Chỉ những vị nào, này các tỳ khưu, Biết rõ chúng với ba loại đạt tri mới có thể đạt đến Niết-bàn)
Đây là những gì được trích ra từ kinh “Aparijānana” trong “Salāyatana Vagga” thuộc Tương Ưng Bộ Kinh[82]
Hơn nữa, trong kinh “Kūtāgāra” Phẩm Sự thật (Sacca Vagga)[83] đức Phật cũng nói rằng, không tuệ tri Tứ Thánh Đế với Minh Sát Tuệ và Đạo tuệ, người ta không thể đạt đến chỗ chấm dứt vòng luân hồi (Samsāra) được. Vì vậy, nếu một hành giả muốn đạt đến Niết-bàn, họ phải cố gắng biết rõ tất cả danh, sắc và nhân của chúng với ba loại đạt tri (parinna).
Ba loại đạt tri ấy là gì?
1) Trí đạt tri (Nāta parinnā). Đây là tuệ hay “Trí phân tích danh sắc” (namā rūpa pariccheda ñāṇa) và “Trí phân biệt nhân duyên” (Paccaya pariggaha ñāṇa). Đó là những tuệ minh sát biết rõ tất cả danh sắc và các nhân của chúng.
2) Thẩm đạt tri (tīana parinnā). Đây là tuệ thẩm sát (tam tướng Sammasana ñāṇa) và tuệ thấy sự sanh diệt (udayabbaya ñāṇa). Hai tuệ này nhận thức thấu đáo tính chất vô thường, khổ và vô ngã của danh sắc chân đế và các nhân của chúng.
3) Trừ đạt tri (Pahāna parinnā). Đây là các tuệ minh sát cao hơn, từ “Tuệ thấy hoại diệt (Bhanga ñāṇa) đến “Đạo tuệ” (magga ñāṇa)
Những lời dạy của đức Phật trong hai bản kinh trên (“Aparijānana Sutta” và “Kūtāgara Sutta“) rất quan trọng. Vì vậy, nếu hành giả muốn hành minh sát bắt đầu với niệm thọ, hành giả phải nhớ những điểm sau:
– Phải phân biệt được danh sắc.
– Phân biệt một mình thọ không vẫn chưa đủ, hành giả cũng cần phải phân biệt các tâm hành đồng sanh với thọ ấy trong tiến trình nhận thức ý môn.
Tuy nhiên, trong thực tế người ta vẫn có thể giác ngộ nhờ phân biệt một pháp (Dhamma) duy nhất, song đó là, chỉ bao lâu tất cả các pháp khác đã được phân biệt trước: hoặc trong kiếp hiện tại này hoặc trong một kiếp nào đó ở quá khứ. Lấy ví dụ như tôn giả Xá Lợi Phất chẳng hạn. Khi vị ấy nghe tôn giả Assaji thốt lên một câu kệ (dhamma), là đã trở thành một vị nhập lưu. Sau đó, ngài mới xuất gia làm tỳ khưu và hành thiền. Trong kinh Đoạn Giảm (“Anupada Sutta“[84]), đức Phật mô tả tôn giả Xá Lợi Phất đã rất thiện xảo như thế nào trong việc phân biệt các tâm hành riêng lẻ của các thiền chứng mà vị ấy tuần tự chứng[85]. Nhưng, cho dù tôn giả đã hành thiền nghiêm ngặt đến như vậy, tôn giả vẫn không đạt được A-la-hán thánh quả.
Rồi, một ngày kia, dức Phật giảng kinh “Dīghanakha” (Trường Trảo kinh) cho người cháu của tôn giả Xá Lợi Phất, giải thích về một pháp (Dhamma): Thọ (Vedanā)[86]. Lúc bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất đang đứng sau lưng đức Phật hầu quạt cho ngài, và lắng nghe lời dạy. Cuối thời pháp, tôn giả đắc A-la-hán thánh quả, còn người cháu đắc nhập lưu. Tôn giả dắc A-la-hán thánh quả nhờ suy tư trên một pháp duy nhất, song đó cũng là vì trước đây ngài đã thiền quán trên năm uẩn.[87]
Điều cần nhắc lại ở đây là, đức Phật nói rằng nếu một vị tỳ khưu không biết rõ tất cả Danh-sắc và các nhân của chúng với ba loại đạt tri (kể trên), vị ấy không thể nào đạt đến Niết-bàn được. Do đó, nếu hành giả cố gắng phân biệt chỉ một mình “thọ” như “thọ khổ” thôi chẳng hạn, mà hoàn toàn không phân biệt danh-sắc chân đế là không đủ. Ở đây “nói không đủ” có nghĩa là hành giả sẽ không đạt đến Niết-bàn được vậy.
Hỏi 4.7: Đức Phật là một bậc Đại A-la-hán. Thế nào là sự khác nhau giữa Ngài và các vị đệ tử như tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, cũng là các bậc A-la-hán?
Đáp 4.7: A-la-hán thánh đạo củađức Phật luôn luôn kết hợp với toàn giác trí hay nhất thiết trí (Sabbannuta ñāṇa), còn A-la-hán thánh đạo của các vị đệ tử bao gồm sự giác ngộ (bodhi) của ba hạng đệ tử (thinh văn).
– Sự giác ngộ của bậc Thượng thủ Thanh văn (Aggasāvaka bodhi)
– Sự giác ngộ của bậc Đại Thanh văn (Mahāsāvaka bodhi)
– Sự giác ngộ của bậc Thanh văn thường (Pakatisāvaka bodhi)
A-la-hán thánh đạo của các vị đệ tử thinh văn đôi khi kết hợp với tứ tuệ phân tích (Patisambhidā ñāṇa)[88]; đôi khi kết hợp với Sáu Thắng Trí hay Lục Thông (Abhinnā)[89]. Đôi khi kết hợp với Tam Minh (Tevijja)[90]; hoặc có khi chỉ là A-la-hán Thánh đạo thuần túy: Câu Phần Giải thoát (Ubhatobhāga vimutta)[91] hoặc Tuệ Giải thoát (Pannā vimutta)[92]. Nhưng không bao giờ kết hợp với Toàn Giác Trí (Sabbannuta Ñāṇa). Như vậy, cho dù là Thượng Thủ Thinh Văn, A-la-hán thánh đạo của tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng không kết hợp với Toàn Giác Trí. Ngược lại, A-la-hán thánh đạo của đức Phật không những kết hợp với Toàn Giác Trí, mà còn với tất cả các trí khác, cũng như các đức đặc biệt của một vị Phật.
Một điều khác nữa là, do các ba la mật đã thành thục của ngài, mà chư Phật tự mình đắc Đạo, Quả, và Toàn Giác Trí, không cần một vị thầy. Trong khi một vị thinh văn đệ tử chỉ có thể đắc các Đạo, Quả tuệ do nghe pháp (Dhamma) liên hệ đến Tứ Thánh Đế nơi một vị Phật, hoặc đệ tử của một vị Phật, chứ họ không thể tự mình thực hành mà không có thầy chỉ dẫn được. Đây là những điểm khác nhau.
Hỏi 4.8: Kiếp sống “trung gian” hay “thân trung ấm” (antara bhava) là gì?
Đáp 4.8: Theo Tam Tạng Pāḷi (Theravāda Pitaka) không có gì được xem là thân trung ấm như vậy. Giữa sát-na tâm tử (cutti citta) và sát-na tâm tục sinh hay kiết sinh thức (patisandhi) theo sau của nó, không có những sát-na tâm khác, hay bất cứ thứ gì tương tự như một thân trung ấm xen vào đó cả. Nếu một người sẽ sanh thiên giới sau khi chết, thì giữa tử tâm của họ và kiết sanh thức chư thiên không hề có sát-na tâm hay bất kỳ thứ gì giống như một kiếp sống trung gian (thân trung ấm) ở đây. Ngay khi cái chết xảy ra, kiết sanh thức chư thiên phát sanh liền. Cũng vậy, nếu một người sẽ sanh vào địa ngục sau khi chết, thì giữa tử tâm của vị ấy và kiết sanh thức trong địa ngục, sẽ không có một thứ gì được xem như thân trung ấm cả. Người này sẽ đi thẳng vào địa ngục sau khi chết.
Ý niệm về thân trung ấm thường phát sanh khi có người nào đó chết, phải sống trong ngạ quỷ giới một thời gian ngắn, và rồi tái sanh làm người trở lại. Họ có thể nghĩ rằng kiếp sống ngạ quỷ của mình là một cái gì đó giống như một kiếp sống trung gian hay thân trung ấm. Vấn đề thực sự xảy ra là như thế này: sau khi tử tâm của kiếp làm người diệt, kiết sanh thức ngạ quỷ khởi lên, sau khi tử tâm ngạ quỷ diệt, một kiết sanh thức của người sanh lên trở lại. Người phải chịu khổ trong ngạ quỷ giới là vì nghiệp bất thiện của họ. Nghiệp lực của nghiệp bất thiện ấy chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn, và bắt lấy kiết sanh thức của người trở lại, do nghiệp thiện họ làm đã chín muồi.
Kiếp sống ngắn ngủi trong thế giới ngạ quỷ đã bị lầm tưởng là một kiếp trung gian do những người không thể thấy sự thực của vòng luân hồi hay vòng duyên sinh. Nếu như họ có thể phân biệt được pháp duyên sinh với minh sát trí, thì niềm tin sai lầm này sẽ biến mất. Vì thế chúng tôi muốn đề nghị quý vị nên học cách phân biệt pháp duyên sanh này với minh sát trí của mình, lúc ấy vấn đề liên quan đến thân trung ấm sẽ biến mất khỏi tâm quý vị.
Hỏi 4.9: Các pháp môn thiền niệm hơi thở và phân biệt tứ đại có giống nhau không? Tại sao chúng ta phải hành thiền tứ đại chỉ sau khi đã hành niệm hơi thở?
Đáp 4.9: Các pháp môn này không giống nhau. Trong thiền minh sát hành giả phải phân biệt danh vàsắc, và các nhân củachúng, đó là lý do tại sao phải có hai loại thiền: phân biệt sắc và phân biệt danh.
Khi dạy phân biệt sắc, đức Phật luôn luôn dạy thiền tứ đại, hoặc tóm tắt hoặc chi tiết. Vì thế, nếu hành giả muốn phân biệt sắc, hành giả cần phải thực hành theo những chỉ dẫn của đức Phật. Tốt hơn nên hành thiền tứ đại với sự trợ giúp của định sâu như tứ thiền hơi thở, bởi vì nó sẽ giúp ta thấy được sắc chân đế, danh chân đế và các nhân của chúng một cách rõ ràng.
Tuy nhiên nếu hành giả không muốn hành thiền chỉ như niệm hơi thở, thì hành giả có thể hành thiền tứ đại trực tiếp cũng được, không có vấn đề gì cả. Điều này chúng ta đã bàn luận ở một câu hỏi trước rồi.
Hỏi 4.10: Thiền sư có thể vui lòng giải thích (cho chúng con biết) ánh sáng kinh nghiệm trong lúc thiền một cách khoa học được không ạ?
Đáp 4.10: Ánh sáng được thấy trong lúc hành thiền là gì? Chúng ta biết mỗi tâm (citta), trừ tâm tục sinh (kiết sanh thức), khởi lên nương vào sắc ý vật hay tâm cơ (hadayavatthu – heart-base) sẽ tạo ra sắc do tâm sinh (cittaja rūpa), cũng gọi là các tổng hợp sắc (rūpa kalāpas). Một tâm có thể tạo ra nhiều tổng hợp sắc do tâm sinh. Trong số các tâm nương vào sắc ý vật này, các tâm thiền tịnh chỉ (samātha bhāvanā citta) và các tâm thiền minh sát (vipassanā bhāvanā citta) được xem là rất mạnh và đầy năng lực, chúng tạo ra rất nhiều các tổng hợp sắc. Khi chúng ta phân tích các tổng hợp sắc ấy, chúng ta thấy có tám loại sắc. Đó là: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, màu, mùi, vị, và dưỡng chất. Sắc màu ở đây rất sáng. Tâm thiền chỉ và thiền minh sát càng mạnh thì màu càng sáng hơn. Bởi lẽ các tổng hợp sắc sanh khởi cùng một lúc và nối tiếp nhau, nên màu của tổng hợp sắc này và màu của tổng hợp sắc khác sanh lên sít sao với nhau giống như trong một bóng đèn điện vậy; đó là lý do vì sao ánh sáng xuất hiện.
Hơn nữa, trong mỗi tổng hợp sắc do tâm thiền chỉ và thiền minh sát tạo ra còn có hỏa đại, yếu tố này cũng tạo ra nhiều tổng hợp sắc mới. Những tổng hợp này được gọi là sắc do thời tiết sinh, bởi vì chúng được tạo ra bởi hỏa đại (yếu tố lửa), vốn là thời tiết (utu). Điều này xảy ra ở bên ngoài cũng như bên trong. Khi chúng ta phân tích các tổng hợp sắc này, chúng ta thấy tám loại sắc như nhau: đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, và dưỡng chất. Màu cũng lại là một trong tám sắc ấy. Do sức mạnh của tâm thiền chỉ và minh sát, màu đó cũng bừng sáng. Như vậy sự bừng sáng của màu này và sự bừng sáng của màu khác phát sinh sít sao với nhau, giống như một bóng đèn điện.
Ánh sáng của sắc do tâm sinh và của sắc do thời tiết sinh xuất hiện cùng một lúc. Sắc màu do tâm sinh chỉ xuất hiện ở bên trong, nhưng sắc màu do thời tiết sinh phát hiện ở cả bên trong lẫn bên ngoài và truyền toả khắp mọi hướng cho đến toàn vũ trụ (cakhavaḷa) hoặc xa hơn, tùy theo sức mạnh của tâm thiền chỉ quán ấy. Chẳng hạn, Trí Phân Tích Danh Sắc của đức Phật tạo ra ánh sáng chiếu đến mười ngàn thế giới; tâm thiên nhãn (dibba cakkhu citta) của tôn giả Anuruddha tạo ra ánh sáng chiếu đến một ngàn thế giới; còn minh sát trí của các vị thánh đệ tử khác tạo ra ánh sáng lên đến một do tuần hoặc hai do tuần, v.v… khắp mọi hướng tùy theo sức mạnh của tâm thiền chỉ và quán của họ.
Thường thường, khi đạt đến sanh diệt trí, rất nhiều hành giả hiểu ra rằng ánh sáng này là một nhóm các tổng hợp sắc (rūpa kalāpa). Trong khi đang hành thiền chỉ họ vẫn không biết đó là một nhóm các tổng hợp sắc như vậy, bởi vì các tổng hợp sắc rất vi tế. Không dễ gì thấy và hiểu các tổng hợp sắc này khi chỉ hành thiền chỉ không thôi. Nếu hành giả muốn biết với sự chắc chắn, hành giả nên cố gắng để có được Sanh – Diệt trí. Đó là cách khoa học nhất để hiểu ánh sáng kinh nghiệm trong lúc thiền.
Hỏi 4.11: Liệu những hành giả đã phân biệt được ba mươi hai thành phần của thân (32 thể trược) có thể thấy chúng nơi người khác, khi họ mở mắt không?
Đáp 4.11: Điều đó còn tùy. Các hành giả mới thực hành chỉ có thể thấy được những thể phần bên ngoài với mắt mở. Họ có thể thấy được các thể phần bên trong với đôi mắt minh sát trí của họ mà thôi. Nếu quí vị muốn biết điều này một cách khoa học, hãy cố gắng tự thấy nó với minh sát trí của mình.
Tuy nhiên, một vị trưởng lão (Mahāthera) do thực hành từ trước có thể thấy được bộ xương của người khác bằng đôi mắt mở của mình, như trưởng lão Mahā Tissa chẳng hạn, là một người thiện xảo trong thiền quán bộ xương (cốt tưởng quán). Ngài luôn luôn hành thiền quán bộ xương bên trong kể như bất tịnh cho đến sơ thiền, rồi chuyển sang minh sát. Ngài đã phân biệt được danh-sắc, các nhân, và tính chất vô thường, khổ, vô ngã của chúng. Đấy là pháp hành thường lệ của ngài.
Một hôm trên đường đi khất thực (piṇapāta), từ chùa Anuradhapura đến làng Mahāgāma. Trên con đường ấy, ngài gặp một phụ nữ, cô này đã cố gắng lôi cuốn sự chú ý của ngài với tiếng cười lớn. Khi nghe âm thanh (của tiếng cười), ngài ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy hàm răng nàng, và rồi dùng hàm răng ấy làm đề tài thiền. Do pháp hành liên tục có trước của ngài, nên ngài chỉ thấy cô ta như một bộ xương chứ không phải như một phụ nữ. Ngài chỉ thấy một bộ xương. Rồi tập trung trên bộ xương của chính mình, ngài đắc sơ thiền và nhanh chóng phát triển minh sát. Đứng ngay trên con đường ấy, ngài đã đắc A-la-hán thánh quả.
Người phụ nữ này, do cãi nhau với chồng nên bỏ về nhà cha mẹ mình. Chồng nàng lần theo, và cũng gặp trưởng lão Tissa. Anh hỏi ngài: “Bạch ngài, ngài có gặp một phụ nữ đi trên đường này không?” Trưởng lão trả lời, “Này thí chủ (dāyaka), ta chẳng biết nam hay nữ, ta chỉ thấy một bộ xương đang đi trên đường này.”
Câu chuyện này đã được Thanh Tịnh Đạo đề cập trong chương nói về Giới.[93]
Đây là một thí dụ cho thấy bằng cách nào một người đã hành thiền quán bộ xương một cách triệt để, như trưởng lão Tissa, có thể thấy bộ xương của người khác với mắt mở của mình.