Nội Dung Chính
Videos 9. Quán 5 Triền Cái (2) | Thiền Sư U Jatila – Khóa Thiền Năm 2015
Quán 5 Triền Cái (2)
(Thiền Sư U Jatila – Khóa Thiền Năm 2015)
Hôm nay là ngày thứ 9 trong khóa thiền 14 ngày được tổ chức tại thiền viện Phước Sơn. Thiền sư sẽ tiếp tục giảng về cách quán 5 triền cái hay 5 ô nhiễm trong phần quán Pháp. Lần trước chúng ta đã xong phần quán sát tham ái, sân hận, và bây giờ chúng ta tiếp tục quán sát dã dượi, buồn ngủ.
Đức Phật nói rằng (Pali, 0:23) “này các tỳ khưu, khi dã dượi, buồn ngủ sinh khởi trong tâm, vị tỳ khưu biết dã dượi, buồn ngủ đang sinh khởi trong tôi, khi dã dượi buồn ngủ không sinh khởi, vị tỳ khưu biết dã dượi, buồn ngủ không sinh khởi trong tôi, khi dã dượi buồn ngủ chưa sinh khởi và sinh khởi, vị tỳ khưu hay biết như vậy, khi dã dượi buồn ngủ vừa sinh khởi và bị loại trừ, tỳ khưu hay biết như vậy, và tỳ khưu cũng hay biết rằng dã dượi buồn ngủ đã bị loại trừ.”
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cứ liên tục thay đổi tư thế cho nên ít cảm nhận được sự buồn ngủ, nhưng trong khi thiền thiền sinh phải ngồi yên một chỗ trong một giờ mà không di chuyển thân hay ít di chuyển thân, cho nên buồn ngủ dã dượi có thể phát sinh. Thiền sinh có thể ngồi quan sát phồng xẹp trong 30 phút đầu nhưng 30 phút sau thì mệt mỏi, buồn ngủ và không tỉnh táo. Vậy thiền sinh đừng lo lắng mà hãy quan sát sự mệt mỏi, buồn ngủ không tỉnh táo này. Khi buồn ngủ không tỉnh táo sinh khởi, thiền sinh hay biết buồn ngủ không tỉnh táo đang sinh khởi, khi buồn ngủ hay không tỉnh táo không còn, thiền sinh hay biết là buồn ngủ hay không tỉnh táo không còn. Do vậy thiền sinh biết buồn ngủ đến rồi đi, khi chánh niệm và sự định tâm phát triển thì tâm rất tỉnh táo, nên thiền sinh không buồn ngủ, đôi khi thiền sinh buồn ngủ nhưng hay biết ngay rồi ghi nhận và cơn buồn ngủ sẽ mất đi.
Khi quán sát thấy được sự buồn ngủ, dã dượi như vậy là thiền sinh đang quán Pháp trong Pháp. Thiền sư nói rằng có khi thiền sinh rơi vào trạng thái không hay biết vì nhiều lý do, do buồn ngủ không tỉnh táo, không hay biết sinh khởi, do hỷ (Pali, 2:45) phát sinh mạnh nên không hay biết sinh khởi, do có sự an lạc khinh an (Pali, 2:51) nơi thân tâm phát triển mạnh nên không hay biết sinh khởi, do sự định tâm (Pali, 2:56) phát triển mạnh nên thiền sinh không hay biết, có khi 20 phút đến 30 phút, và khi có xả (Pali, 3:03) thiền sinh cũng có thể không hay biết.
Nếu có chánh niệm, nếu định và tinh tấn quân bình thì thiền sinh sẽ không bị buồn ngủ, vì có sự hỷ mạnh, lạc mạnh, định mạnh hay là có xả. Nhưng dù vì lý do gì khi trạng thái buồn ngủ không tỉnh táo phát sinh, thiền sinh cần ghi nhận và quan sát, nhờ vậy sự buồn ngủ không tỉnh táo sẽ mất đi.
Và rồi Đức Phật dạy chúng ta quan sát tâm vọng động và hối tiếc như sau (Pali, 3:40), “này các tỳ khưu, khi phóng tâm suy nghĩ, và hối tiếc (Pali,4:25) sinh khởi trong tâm, vị tỳ khưu biết phóng tâm và hối tiếc đang sinh khởi trong tôi. Khi phóng tâm và hối tiếc không sinh khởi, vị tỳ khưu biết phóng tâm và hối tiếc không sinh khởi trong tôi. Khi phóng tâm và hối tiếc chưa sinh khởi giờ sinh khởi, vị tỳ khưu hay biết như vậy. Khi phóng tâm và hối tiếc đã sinh khởi giờ bị loại trừ, vị tỳ khưu hay biết như vậy. Và tỳ khưu cũng hay biết rằng phóng tâm và hối tiếc đã bị loại trừ sẽ không còn sinh khởi nữa.”
Phóng tâm hay là tâm vọng động, (Pali, 5:01) có nghĩa là tâm phóng chạy, buông bắt hết đối tượng này đến đối tượng khác, là tâm suy nghĩ liên tục, và tâm hối tiếc (Pali, 5:11) có nghĩa là hối hận đã làm điều gì sai, hay hối hận không chịu làm điều gì mà đáng lẽ mình nên làm.
Khi hành thiền thiền sinh có thể dễ dàng nhìn thấy tham ái, sân hận, buồn ngủ khi chúng sinh khởi nhưng thiền sinh khó thấy và khó nhận ra tâm vọng động hay hối tiếc khi nó sinh khởi. Nhưng với chánh niệm thiền sinh có thể nhìn thấy và loại trừ.
Thiền sư nói rằng chỉ khi trở thành Alahan thì phóng tâm, vọng động mới vĩnh viễn không còn sinh khởi nữa. Đến quả vị A Na Hàm người này có thể loại trừ tâm hối tiếc nhưng không thể loại trừ sự phóng tâm vọng động, dù nó không nhiều và thường xuyên như ở phàm nhân. Vậy thiền sinh có thể ngồi thiền 1 đến 2 tiếng đồng hồ nhưng điều này không có nghĩa là thiền sinh không bị phóng tâm, có khi thiền sinh không phóng tâm nghĩ về gia đình hay việc làm ăn, nhưng vẫn nghĩ về Pháp, về việc thực hành chánh niệm, và đây là loại phóng tâm vi tế. Không biết rằng mình đang nghĩ về giáo Pháp, về hành thiền chính là sự phóng tâm vọng động, thì thiền sinh sẽ không loại trừ được sự phóng tâm, vọng động này. Vậy khi có phóng tâm, vọng động suy nghĩ, thiền sinh hãy hay biết và ghi nhận, khi phóng tâm, vọng động suy nghĩ không còn, thiền sinh hay biết là sự suy nghĩ, vọng động không còn.
Để biết được việc hay biết tâm vọng động, phóng đi đó đây là khó khăn đến dường nào, chúng ta hãy nghe câu chuyện sau trong bài Kinh (Pali, 6:42) trong (Pali, 6:44).
Vào thời đó Đại đức Anuruda Ananda và Devadatta xuất gia cùng một ngày, và tỳ khưu Anuruda có thiên nhãn thông nhìn thấy cả ngàn thế giới xa xôi, thấy cảnh chư thiên, cảnh địa ngục, v.v…và dù cố gắng hành thiền nhưng vị này không tiến bộ trong việc thiền tập cho nên vị này đến gặp Đại đức Xá Lợi Phất để được giúp đỡ.
Tỳ khưu này nói với ngài Xá Lợi Phất rằng “thưa sư huynh, tôi có thiên nhãn thông, có thể thấy cả ngàn thế giới xa xôi một cách dễ dàng, tôi có tinh tấn mạnh mẽ, tôi có chánh niệm sắc bén, thấy rõ đề mục sinh khởi, tôi có sự định tâm mạnh mẽ, thân tâm của tôi an lạc, nhưng tôi vẫn không thoát khỏi những ô nhiễm, vẫn không thể nào đạt quả vị A La Hán”.
Đại đức Xá Lợi Phất trả lời “này bạn, cho rằng mình có thần thông có thể thấy nhiều thế giới xa xôi chính là ngã mạn, cho rằng mình có tinh tấn mạnh mẽ, có chánh niệm tốt, có định mạnh, có thân tâm an lạc là đang có phóng tâm, tự hỏi tại sao lại xảy ra như thế này là sự hối hận, chỉ khi loại trừ phóng tâm hối hận và chú tâm quan sát những gì sinh khởi thì bạn mới vượt qua được khó khăn này”.
Nghe vậy tỳ khưu Anuruda nhận ra mình phóng tâm mà không hay biết cho nên Ngài chăm chút việc hành thiền của mình hơn, cẩn thận quan sát những gì xảy ra trong khi hành thiền nhiều hơn, và do vậy Ngài trở thành vị A La Hán.
Chúng ta nên biết rằng tỳ khưu Anuruda là một người rất thông minh, thấy được chúng sinh và cảnh giới của một ngàn thế giới xa xôi nhưng vị này vẫn không thấy được những phóng tâm hối tiếc sinh khởi ngay trong tâm của mình, cho nên nói rằng thiền sinh khó nhận ra tâm vọng động, hối tiếc khi nó sinh khởi. Cho nên nếu thiền sinh không nhận ra mình đang suy nghĩ, đang phóng tâm về giáo pháp thì người này sẽ không tiến bộ trong hành thiền, phóng tâm, vọng động, suy nghĩ sinh khởi khi thiền sinh nghĩ rằng bây giờ tâm tôi an lạc, bây giờ tâm tôi không bị phóng chạy, thân tôi nhẹ quá, thân tôi nóng quá, tinh tấn của tôi cao, tôi thấy rõ đề mục, phồng xẹp bây giờ nhẹ, trước kia ở Miến phồng xẹp khó thấy, bây giờ phồng xẹp dễ thấy và nhẹ nhàng, hay khi thiền sinh nghĩ mình phải quan sát phồng xẹp, dở bước đạp ra sao cho đúng.
Khi có những suy nghĩ như vậy là thiền sinh đang phóng tâm, nhiều thiền sinh vẫn không thấy tâm mình vọng động, phóng chạy khi những suy nghĩ trên sinh khởi và thiền sinh vẫn không biết rằng tâm mình đang vọng động, phóng chạy như vậy. Khi thiền sinh không thấy những phóng tâm thì cho rằng mình không suy nghĩ gì trong khi hành thiền, có khi thiền sinh thấy rằng suy nghĩ chỉ sinh khởi một đến hai lần trong khi ngồi thiền hay trong khi đi kinh hành, thấy rằng mình không phóng tâm, thấy rằng mình suy nghĩ chỉ một, hai lần là do không chánh niệm, quan sát kỹ càng phồng xẹp, dở bước đạp và những hoạt động hằng ngày cho nên không hiểu rõ những hoạt động của tâm.
Vì không hiểu rõ những hoạt động của tâm, vì không thấy rõ tâm phóng chạy, vọng động cho nên những thiền sinh này sẽ không có kinh nghiệm gì mới trong việc hành thiền, những thiền sinh này sẽ không tiến bộ trong việc hành thiền, do vậy họ không muốn đến gặp thiền sư để hỏi pháp.
Tâm phóng chạy, vọng động sẽ sinh khởi và thiền sinh sẽ thấy như vậy trong khi hành thiền, nếu không thấy được phóng tâm là việc hành thiền có vấn đề, nếu thiền sinh hay biết và quán sát được những sự phóng tâm vọng động, suy nghĩ này là tốt. Do vậy khi có phóng tâm thiền sinh hay biết có phóng tâm, khi không có phóng tâm vọng động, thiền sinh hay biết không có phóng tâm vọng động, khi có hối tiếc thiền sinh hay biết có hối tiếc sinh khởi, khi không có hối tiếc thiền sinh hay biết là không có hối tiếc sinh khởi trong tâm. Khi chánh niệm hay biết những gì sinh khởi và mất đi nơi thân và tâm trong lúc ngồi thiền, trong khi đi kinh hành, trong những hoạt động hằng ngày, thì việc thiền tập của thiền sinh vẫn tiến triển không có gì phải lo.
Đức Phật cũng dạy chúng ta quan sát tâm hoài nghi khi nó sinh khởi, (Pali, 11:19) “này các tỳ khưu, khi hoài nghi (Pali, 11:58) sinh khởi trong tâm, vị tỳ khưu biết hoài nghi đang sinh khởi trong tôi, khi hoài nghi không sinh khởi, vị tỳ khưu biết hoài nghi không sinh khởi trong tôi, khi hoài nghi chưa sinh khởi, giờ sinh khởi, vị tỳ khưu hay biết như vậy, khi hoài nghi sinh khởi rồi, giờ bị loại trừ, vị tỳ khưu hay biết như vậy, và tỳ khưu cũng hay biết rằng hoài nghi đã bị loại trừ sẽ không còn sinh khởi nữa”.
Hoài nghi, nghi ngờ là một loại ô nhiễm trong tâm cần được loại trừ, khi có hoài nghi hay nghi ngờ, ta sẽ không thể quyết định được việc gì, hoài nghi về Phật Pháp Tăng, hoài nghi về Tứ Diệu Đế tức là bốn sự thật cao thượng, hoài nghi về luật nhân quả là những ô nhiễm khó loại bỏ. Những người thuộc các tôn giáo khác, hoài nghi không tin Phật Pháp Tăng, Phật tử có thể hoài nghi về phương pháp hành thiền quan sát phồng xẹp, hoài nghi về vị thầy của mình, nghĩ rằng đây không phải là phương pháp mà Đức Phật dạy, khi hoài nghi như vậy thì sẽ không hết lòng làm theo sự chỉ dẫn. Có người cho rằng phải hành thiền định trước khi hành thiền minh sát cho nên họ không hết lòng hết dạ tu tập như được chỉ dẫn, do vậy khó có tiến bộ trong khi hành thiền, khi hoài nghi sinh khởi trong tâm chúng ta cần ghi nhận và nó sẽ mất đi.
Có những thiền sinh tin vào phương pháp hành thiền quan sát phồng xẹp nhưng vẫn có một số hoài nghi, khi thấy phồng to xẹp nhỏ, khi thấy thân lắc, khi thấy đau nhức nhiều, v.v…thì thiền sinh này tự hỏi điều này có đúng không, như vậy sức khỏe tôi có sao không, hành thiền như vậy có làm thân này bệnh hay chết không, và quan sát phồng xẹp có thể loại trừ ô nhiễm trong tâm hay không, hoài nghi lo lắng như vậy làm cho việc quan sát đề mục không được liên tục, và vì hoài nghi lo lắng thiền sinh có thể bỏ thiền, ngưng thiền, do vậy thiền sinh không gặt hái được lợi lạc.
Dù thiền sinh kinh nghiệm gì trong khi hành thiền, đây là những Pháp sinh khởi, do vậy thiền sinh không cần phải mở mắt kiểm tra mà cứ tiếp tục quan sát, làm được như vậy thiền sinh sẽ tiến bộ trong tu tập, thấy các pháp rõ ràng hơn, và hiểu các pháp hơn. Cho nên Đức Phật dạy khi 5 triền cái, khi 5 ô nhiễm là tham ái, sân hận, dã dượi, buồn ngủ, phóng tâm, hối tiếc, hoài nghi sinh khởi, thiền sinh cần hay biết và quán sát những ô nhiễm này để rồi thiền sinh hiểu rằng chúng sinh diệt, chúng có bản chất vô thường, khổ, vô ngã, làm được như vậy là thiền sinh đang quán pháp trong các pháp, làm được như vậy thiền sinh sẽ loại trừ được những ô nhiễm này ở trong tâm.
(Pali, 14:38) “vị ấy thiết lập chánh niệm chặt chẽ trên các pháp mà mình kinh nghiệm bên trong và hiểu rằng các pháp người khác kinh nghiệm được cũng tương tự như vậy, vì thế nên nói rằng vị ấy cũng chánh niệm trên các pháp nơi người, vị ấy chánh niệm trên các pháp sinh khởi nơi mình và nơi người, vị ấy cũng hiểu được nguyên nhân và sự sinh khởi của các pháp nơi mình, nguyên nhân và sự diệt tận của các pháp nơi mình, vị ấy hiểu được nguyên nhân cùng với sự sinh và diệt của các pháp, để rồi vị tỳ khưu chánh niệm hay biết rằng chỉ có các pháp sinh khởi mà không có một linh hồn hay bản ngã. Loại hiểu biết này chỉ có được khi chánh niệm lớn mạnh và các tầng tuệ minh sát tăng trưởng để rồi vị tỳ khưu một mực xa rời tham ái và tà kiến, không còn bám níu vào điều gì trong đời, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống quán pháp trong pháp, quan sát 5 triền cái như thế”
Thiền sư muốn chia sẻ một câu chuyện xảy ra tại Thiền viện của mình. Vào lúc đó có 20 thiền sinh Việt nam và 15 thiền sinh người Miến hành thiền dài hạn tại thiền viện Kyunpin. Có những thiền sinh đã hành thiền 1, 2, 3 hay 4 năm rồi, có những người đến Kyunpin vài tháng trong mỗi năm, khi hành thiền trong một thời gian dài, thì chánh niệm và sự định tâm mạnh, cho nên khi họ trình pháp thiền sư không nghe thiền sinh phàn nàn rằng họ bị phóng tâm vọng động gì cả. Khi các thiền sinh hành thiền lâu năm này trình pháp, họ chỉ nói rằng phóng tâm phát sinh và con quan sát được phóng tâm, do đó phóng tâm biến mất, thiền sư cũng không cần nói gì thêm, chỉ nhắc nhở thiền sinh thực hành chánh niệm thêm mà thôi.
Do vậy thiền sư muốn nhắc nhở các thiền sinh nơi đây rằng chúng ta cần phải hành thiền liên tục trong một thời gian dài để có chánh niệm và sự định tâm mạnh mẽ. Dù khóa thiền sẽ chấm dứt nhưng thiền sinh nên tiếp tục thực hành 4, 5 tiếng trong một ngày để có được sự tiến bộ, thấy rõ các pháp, hiểu rõ ràng những gì Đức Phật dạy. Ngài thiền sư kết thúc bài pháp thoại hôm nay ở đây.
(Bản text do Đinh Huế đánh máy)
BỘ VIDEOS KHÓA THIỀN VIPASSANA 2015 – THIỀN SƯ U JATILA