-13-
LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO
Bốn Chỗ Ðộng Tâm
Trong khi ngự tại Rừng Long Thọ ở Kusinàrà (Câu Thi Na), một vài tiếng đồng hồ trước khi nhập parinibbàna (Ðại Niết Bàn), Ðức Phật Tối Thượng, lúc ấy tám mươi tuổi thọ, nói với Ðức Ànanda, vị thị giả trung tín và quý mến nhất của Ngài:
“Có bốn nơi, này Ànanda, mà người thiện tín nhiệt tâm đến viếng với những cảm xúc gợi hứng (samvega): nơi mà người ấy có thể nói, ‘Tại đây Ðức Như Lai đản sanh,’ ‘Tại đây Ðức Như Lai thành đạo,’ ‘Tại đây Ðức Như Lai vận chuyển Pháp Luân,’ ‘Tại đây Ðức Như Lai cuối cùng nhập Parinibbàna (Ðại Niết Bàn), Vô Sanh Bất Diệt.’ Và này Ànanda, nhiều chư Tăng và chư Ni nhiệt thành trong Giáo Hội, và nhiều chư thiện nam tín nữ, sẽ đến những nơi này.”
I- Lumbini
Lumbini (Lâm Tỳ Ni), hay Rummindei, tên địa phương mà hiện nay người ta quen gọi, là nơi đản sanh của Hoàng Tử Siddhattha Gotama, nằm về hướng Bắc cách Benares một trăm dậm Anh, và từ nơi đây nhìn thấy trọn vẹn dãy núi Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn) tuyết phủ trắng phao. Siddhattha Gotama, bậc Toàn Giác, là người sáng lập Phật Giáo. Cha Ngài, Vua Suddhodana Gotama, thuộc giai cấp Kshatriya (chiến sĩ), đóng đô tại Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) và trị vì toàn thể lãnh thổ của dòng Sakya (Thích Ca) nằm trên biên giới Nepal; Công chúa Mahàmàyà của dân tộc Koliya là hoàng hậu.
Vào ngày trăng tròn tháng Năm D.L. (Vesàkha), trong khi đi từ Kapilavatthu về quê cha mẹ tại Devadaha, Hoàng Hậu Mahàmàyà hạ sanh một hoàng nam trong khu Rừng Lumbini xinh đẹp, dưới tàng bóng một cội cây long thọ đang trổ hoa tươi tốt. Công trình khám phá và nhận ra vườn Lumbini vào năm 1896 được biết là do nhà khảo cổ trứ danh, Tướng Alexander Cunningham. Do nhờ nỗ lực kiên trì và không biết mệt của ông nhiều thánh tích Phật Giáo lúc bấy giờ chưa ai biết và xá lợi của hai vị đại đệ tử, Ðức Sàriputta (Xá Lợi Phất) và Ðức Mahà Moggallàna (Mục KIền Liên), được đem ra ánh sáng.
Tại Lumbini, khách hành hương và khách du lịch đặc biệt chú ý đến trụ đá Asoka vĩ đại, được dựng lên cách nay 2,210 năm về trước. Lịch sử ghi rằng sau khi trở thành Phật tử, Hoàng Ðế Asoka (A Dục) từ bỏ Dig-vijaya (cuộc xâm lăng thế gian bằng võ lực) và kiên cố thiết lập Dharma-vijaya (cuộc xâm lăng bằng đường lối chân chánh) và chánh thức hành hương đến các thánh tích. “Những cuộc chánh thức hành hương các thánh tích mà Asoka ra lịnh tổ chức, thay vì những cuộc săn bắn của nhà vua, và những địa điểm thiêng liêng Phật Giáo mà Ngài đến viếng, đều được đánh dấu bằng các đài tưởng niệm có hình ngọn cờ của hoàng đế (dhvaja-stambhas), chạm trổ và gọt giũa khéo léo trên đá và lộng lẩy ghi tạc những dòng chữ thời Asoka thuật lại cuộc viếng thăm nơi này của nhà vua. Những di tích tương tợ vẫn còn, trong tình trạng ít nhiều toàn hảo. [1]
Ðại Ðế Asoka cùng đoàn tùy tùng đến hành hương tại Lumbini với vị thầy và cố vấn mình, Ðại Ðức Upagupta. Vị này chỉ nơi Hoàng Tử Siddhattha đản sanh và nói, “Nơi đây, tâu Ðại Vương, bậc chí tôn chí thánh Sakyamuni đản sanh.” Asoka quỳ xuống khấu đầu đảnh lễ thánh tích và truyền lịnh cho xây dựng tại nơi này một trụ đá tưởng niệm để ghi dấu trạm dừng chân đầu tiên của cuộc hành hương. Trên trụ đá có ghi tạc năm hàng gồm 93 chữ thời Asoka như sau:
Devàna piyena Piyadasinà làjina visativasàbhistitena, atana àgàcha mahiyita hida Budhe jàte Sàkyamuni ti, silà vigadabhi chà kalàpita silàthabhe cha usapàpite, hida Bhagavam jàte ti Lummini-game yubalike kate, atha-bhagiye cha.
“Vua Devanampiya Piyadassi, lúc ấy hai mươi tuổi thọ, đích thân đến tôn vinh địa điểm này. Vì Ðức Phật, vị hiền thánh dòng Sakya đản sanh nơi đây, nhà vua hạ lịnh xây dựng một vách thành bằng đá bao quanh nơi này [2] và một trụ cột bên trong. Vì nơi đây Ðức Thế Tôn đản sanh, vua giảm sưu thuế cho dân làng Lumbini tám phần mể cốc.” [3]
II- Buddhagayà (hay Bodh-Gaya)
Buddhagayà, hay Bodh-Gaya như người Ấn gọi, là thánh tích thiêng liêng nhất của người Phật tử trên khắp thế giới bởi vì chính tại nơi đây mà Ðức Bổn Sư chứng ngộ Ðạo Quả Tối Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vào năm ba mươi lăm tuổi thọ.
Kinh điển Phật Giáo ghi rằng vào năm lên hai mươi chín tuổi Thái Tử Gotama từ bỏ vợ và con, cha Ngài và ngôi vị quốc vương đầy hứa hẹn quyền thế, vinh quang, và đắp lên mình bộ y của đạo sĩ, rút vào sống đơn độc trong rừng sâu để tìm chân lý vĩnh cửu của đời sống. Cùng với năm vị đạo sĩ khác Ngài thực hành pháp tu khổ hạnh bên bờ sông Neranjara (Ni Liên Thiền) tại Uruvela, gần Gayà. Tận lực cố gắng và kiên trì chiến đấu trong sáu năm dài dẳng Ngài đã đến tận ngưỡng cửa của thần chết. Nhưng pháp tu khổ hạnh không đưa Ngài đến mục tiêu mong mỏi. Từ bỏ lối tu ép xác và nhịn đói đến mức cùng cực Ngài bắt đầu dùng trở lại chút ít thức ăn. Năm vị đạo sĩ cùng tu với Ngài thấy vậy chán nản, lìa bỏ Ngài. Chừng đó, không có sự giúp đỡ của một vị thầy ngoài ý chí sắt đá và hạnh tinh tấn không lay chuyển của chính mình, hoàn toàn tin tưởng nơi lòng trong sạch và quyền năng dũng mãnh của chính mình, không cùng tu với một ai, Bồ Tát khẳng quyết thành đạt mục tiêu cùng tột trong tình trạng hoàn toàn đơn độc. Ngồi tréo chân dưới cội bồ đề tại Uruvela, một nơi ngoạn mục làm êm dịu giác quan và kích thích tâm trí, Ngài đi sâu vào pháp hành niệm hơi thở-vào-thở-ra (àna-apàna-sati).
Giờ đây vào ngày trăng tròn tháng Năm, khi mặt trời vừa ló dạng trên vùng trời phương Ðông và trăng tròn tháng Vesak dần dần khuất bóng ở phương Tây, Bồ Tát giải quyết những khó khăn phức tạp của sự trở thành, vén lên bức màng che dấu những bí ẩn của kiếp sinh tồn: khổ, nguyên nhân sanh khổ, sự chấm dứt đau khổ và con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ. Vì sự kết hợp thiêng liêng này, địa điểm Gayà (Ðạo Tràng) được gọi là Buddha Gayà (Bồ Ðề Ðạo Tràng), và cội cây che mưa đỡ nắng cho Ðức Phật lúc ngồi thiền có tên là Bodhi (Bồ Ðề), hay Bo Tree, “cây trí tuệ”.
Như vậy Ngài trở thành người mà vòng luân hồi (samsàra) đã chấm dứt. Rồi Ngài suy tư: “Tâm ta không còn chút gì ham muốn những kiếp sinh tồn triền miên tiếp diễn. Sự sanh đã được tận diệt, đời sống thánh thiện đã được hoàn tất viên mãn, những gì cần phải làm đã được làm, đối với ta không còn tái sanh nữa. Tri và kiến đã phát sanh đến ta. Trạng thái giải thoát của ta đã bất lay chuyển, đây là lần sanh cuối cùng của ta.” [4]
Chính lúc ngồi dưới cội Bồ Ðề mà đấng Toàn Giác suy gẫm về paticca-samupapàda (pháp tùy thuộc phát sanh, hay thập nhị nhân duyên), phần nòng cốt của giáo huấn Ngài, như sau: “Khi cái này hiện hữu, cái kia hiện hữu; với sự phát sanh của nhân này, quả kia phát sanh; khi nhân này không hiện hữu, quả kia không hiện hữu; với sự chấm dứt nhân này, quả kia chấm dứt.”
Cội Bồ Ðề hiện tại là một trong những cây con cháu của cội Bồ Ðề thời Ðức Phật. Ðược biết rằng Công Chúa Sanghamittà, con Hoàng Ðế Asoka, đã thỉnh theo với nàng một cây nhỏ, chiết từ một cành hướng về phía Nam của cội Bồ Ðề chính, và đem sang Sri Lanka, trồng tại Anuradha-pura. Cội cây này hiện vẫn còn sum sê tươi tốt và là cây Bồ Ðề già nhất thế giới được biết.
Theo sự ghi nhận của hai nhà hành hương Trung Hoa, Fa-Hien và Hiuen-Tsiang, Hoàng Ðế Asoka có thói quen đến viếng cội Mahà Bodhi. Câu chuyện cội Bồ Ðề và cuộc viếng thăm của Hoàng Ðế được diễn tã trong những tác phẩm điêu khắc của đền Sanchi.
Ðược biết Vua Asoka có cho xây dựng một nơi để tôn thờ thánh tích tại địa điểm mà Ðức Bổn Sư Thành Ðạo, và một vách thành bằng đá đẹp đẽ rào quanh. Tuy nhiên, đến nay không còn tàn tích nào của những công trình ấy. “Ðền thờ tại Bodh-Gayà khó có thể được xây dựng sớm hơn thế kỷ thứ nhất trước dương lịch, nhưng có lý do để tin rằng nó cũng nhái theo kiến trúc của đền thờ mà Asoka cho xây dựng tại cùng địa điểm này.” (Havell, trang 112). Có một liên hệ văn hóa giữa Buddha-Gaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) và xứ Sri Lanka (Tích Lan). Vào triều đại Samudragupta tại Ấn, Vua Meghavanna xứ Sri Lanka có gởi sứ giả sang với nhiều tặng phẩm quý giá và yêu cầu cho sáng tạo một ngôi chùa tại Buddha-Gayà để cho các nhà sư từ Sri Lanka đến, cư ngụ tại đó. Ngài Hiuen Tsiang đã viết rất sống động về ngôi tự viện này mà Ngài viếng thăm vào khoảng giữa thế kỷ thứ Bảy.
“Ðây là ngôi Sinhala Sanghàràma (chùa Tích Lan) đầu tiên được xây dựng tại Bắc phần xứ Ấn, nhưng chắc chắn không phải là tự viện đầu tiên của người Tích Lan trên (toàn) xứ Ấn Ðộ, bởi vì chúng ta biết rằng theo di tích ghi tạc trên đá của Virapurisadatta tại Nàgarjunikonda thì một ngôi chùa thật rộng có tên Sinhala-vihàra đã được xây dựng bên bờ sông Krsnà trong miền Nam xứ Ấn tối thiểu là một thế kỷ trước đó. Cơ sở Mahàbodhi Sanghàràma vẫn còn ở ngay bên ngoài cổng phía Bắc của đền thờ Bodhgàya, thách đố những cơn phong ba bão táp của thời gian, mặc dầu đã bị lãng quên từ nhiều thế kỷ.” [5]
III- Isipatana (nay Sarnath)
Kế đến là Isipatana, hiện là Sarnath, nơi mà Ðức Bổn Sư vận chuyển Bánh Xe Pháp Bảo. Vừa hai tháng sau khi chứng đắc Toàn Giác thì ngài rời Gayà để đi Benares, cách đó không ít hơn một trăm năm mươi dặm Anh để giáo truyền chân lý đến năm vị đạo sĩ mà xưa kia đã cùng tu với Ngài nhưng đến nay vẫn còn lạc bước trong nếp sống khổ hạnh vô nghĩa lý, cực kỳ kham khổ.
Lần hồi đi từng chặng, Ðức Thế Tôn đến Vườn Lộc Uyển tại Isipatana, gặp năm đạo sĩ, và nói: “Này chư đạo sĩ, Như Lai [6] là A La Hán, đấng Trọn Lành, bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác (Sammà Sambuddha). Hãy lắng nghe, này chư đạo sĩ, trạng thái Bất Diệt đã được thành đạt, Như Lai sẽ giảng dạy các thầy. Như Lai sẽ giáo huấn các thầy. Hành theo lời dạy của Như Lai các thầy sẽ thông hiểu và tự mình chứng ngộ, trong chính kiếp sống này, mục tiêu trong sạch tối thượng mà các người con trong những gia đình quý phái rời bỏ gia đình, để theo lối sống không nhà cửa.”
Lúc ấy năm vị đạo sĩ nói: “Này Ðạo Hữu Gotama, mặc dầu đã thực hành lối tu cực kỳ nghiêm khắc, khổ hạnh và tự ép xác, Ðạo Hữu đã không thành đạt tri kiến và trí tuệ siêu thế nào. Giờ đây sống đời xa hoa, lợi dưỡng và từ bỏ chiến đấu, làm thế nào Ðạo Hữu thành đạt tri kiến và trí tuệ siêu thế?” Rồi Ðức Thế Tôn trả lời: “Như Lai không hề từ bỏ cố gắng, trở về lối sống xa hoa và phong phú dồi dào. Như Lai là bậc Toàn Giác tối thượng. Hãy lắng nghe, này chư đạo sĩ, trạng thái Bất Diệt đã được thành đạt. Như Lai sẽ giảng dạy các thầy. Như Lai sẽ dạy Giáo Pháp.” Lần thứ nhì năm vị đạo sĩ lặp lại thắc mắc như trước, và Ðức Phật cũng trả lời như trước lần thứ nhì. Lần thứ ba câu hỏi được lặp lại. Chừng đó Ðức Bổn Sư hỏi: “Này chư đạo sĩ, có lần nào trước đây chư đạo sĩ nghe Như Lai nói như vậy không?” “Bạch Ngài, không.” Các đạo sĩ trả lời. Lời nói chân thật của Ðức Phật đã thuyết phục năm đạo sĩ, giờ đây tin chắc lời của Ðức Phật, sẵn sàng lắng nghe Ngài.
Lúc bấy giờ nhằm ngày trăng tròn tháng 7 (Àsatha), vào buổi chiều, trong Vườn Lộc Uyển tại Isipatana, thành Benares, Ðức Phật ngỏ lời với năm đạo sĩ:
“Có hai cực đoan, này chư đạo sĩ, mà người tu hành không nên dung dưỡng trau giồi. Hai ấy là gì? Lối sống lợi dưỡng, duyên theo nhục dục ngũ trần vốn thấp hèn, phàm tục và đưa đến tổn hại; và lối tu ép xác khổ hạnh, vốn đau khổ, thấp hèn và đưa đến tổn hại. Trung Ðạo, này chư đạo sĩ, mà Như Lai khám phá, tránh xa hai cực đoan trên và đem lại nhãn quan, tri kiến và Niết Bàn.
“Trung Ðạo ấy là gì? Ðó chính là Bát Chánh Ðạo, tức: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”
Rồi Ðức Thế Tôn giải thích cho năm vị đạo sĩ Tứ Diệu Ðế: diệu đế về dukkha (đau khổ), diệu đế về nguyên nhân của dukkha, diệu đế về sự chấm dứt dukkha, diệu đế về con đường dẫn đến chấm dứt dukkha. [7]
Sarnath, nằm về hướng Bắc cách Vàrànasi năm dặm Anh, là nơi chôn nhau cắt rún của Giáo Pháp, những gì Ðức Phật dạy, và Tăng Già, những người được dạy. Bởi vì chính tại nơi đây bậc Toàn Giác lần đầu tiên công bố Giáo Pháp, và từ nơi đây Ngài gởi sáu mươi vị đệ tử đầu tiên tuôn ra khắp nơi.
Ðại Ðế Asoka đến hành hương nơi thánh tích này và cho xây dựng một loạt những đài tưởng niệm và một trụ cột với tượng sư tử trên đỉnh. Sư tử trên đầu cột, hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Sarnath, là niềm hãnh diện của nơi này, và ngày nay, cũng sư tử ấy là biểu hiệu của xứ Ấn Ðộ tự do. Những chữ được ghi tạc trên cột trụ là “… không có bất luận ai, dầu thế nào, có thể chia rẻ tách rời Tăng Già. Bất luận ai, tăng hay ni, chia rẻ Tăng Già phải bị đắp y trắng và ở một nơi khác hơn là chùa chiền.”
Trong quyển Discovery of India, Sri Nehru viết, “Tại Sarnath, hầu như tôi thấy Ðức Phật đang thuyết giảng bài Pháp đầu tiên của Ngài, và vang âm của một vài chữ được ghi nhận hình như còn phảng phất đâu đây cho tôi, xuyên qua hai ngàn năm trăm năm xa xưa. Những thạch trụ Asoka với những chữ được ghi tạc trên đó hầu như nói với tôi trong một ngôn ngữ tuyệt mỹ về một con người, dầu là một hoàng đế, vĩ đại hơn bất cứ vì vua hay hoàng đế nào.”
Trong khi tìm những trụ cột Asoka, H.G. Rawlinson viết trong quyển India (trang 84): “Những trụ cột này bị hao mòn láng mướt, bằng phẳng gần giống như mặt gương, và tình trạng láng bóng ấy làm những du khách sau này lầm tưởng là kim khí. Chót vót trên đỉnh cao là một cái chuông, và một hình ảnh biểu tượng, mà thường là sư tử. Trong những đầu cột này, cái mà người ta chú ý nhất được thấy ở Sarnath, với bốn sư tử tuyệt đẹp đỡ lên một dharma-cakra, Bánh Xe Pháp Bảo, vốn được vận chuyển tại địa điểm này.”
John Marshall nói với lòng khâm phục sâu xa về “những tượng sư tử hùng dũng trên đầu trụ, gân guốc nổi phồng lên và bắp thịt nở nang,” và ông đi xa đến đỗi tuyên bố rằng cả hai, chuông và đầu cột, là “những kiệt tác về mặt nghệ thuật cũng như về phương diện kỷ thuật — quả thật là tác phẩm điêu khắc hoàn hảo nhất mà xứ Ấn Ðộ đã sáng tạo và không có chi cùng loại này trong thế giới cỗ xưa có thể hơn.”
IV- Kusinara (Kusinagara)
Từ Sarnath chúng ta đến Kusinara, hay Kusinagara như hiện nay người ta gọi. Ðịa điểm này nằm trong Uttar Pradesh, khoảng 120 dặm Anh phía Ðông Bắc của Bàrànasi. Ðây là cảnh Ðức Phật nhập diệt, vì lẽ ấy người Phật tử có tâm đạo nhiệt thành cùng khắp thế giới đến viếng thánh tích này với tâm xúc động và lòng gợi cảm mạnh mẽ.
Vào lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn được tám mươi tuổi thọ. Hai vị đại đệ tử của Ngài, Sàriputta và Mahà Moggal-làna, đã nhập diệt ba tháng trước. Pajàpati Gotami, mẹ nuôi của Ðức Bổn Sư và là vị lãnh đạo Giáo Hội Tỳ Khưu Ni, Yasodharà, và Ràhula cũng đã qua đời. Vì lúc ấy nhằm mùa Nhập Hạ nên Ðức Phật, cùng với đông đảo chư tỳ khưu, rời Vesàli đi Beluva để an cư kiết hạ (vassàna). Rồi từ Beluva Ngài đi Mahàvana. Bịnh hoạn làm kiệt sức, chân cẳng yếu kém, Ðức Phật giờ đây đi đứng rất khó khăn, theo sau có Ðại Ðức Ànanda và một nhóm đông chư tăng. Chí trong cuộc hành trình dài dẳng và mệt nhọc cuối cùng này Ðức Bổn Sư cũng luôn luôn để ý dạy dỗ người khác.
Giờ đây Ðức Phật đã đến mức tận cùng của cuộc hành trình, trong khu Rừng Long Thọ của người Mallas tại Kusinàrà. Ngỏ lời cùng chư tăng, Ðức Phật giảng dạy nhiều điểm quan trọng được ghi trong Mahàparinibbàna Suttanta, Kinh Ðại Niết Bàn, bài kinh dài nhất trong kinh điển Phật Giáo. Tất cả những diễn biến xảy ra trong những năm cuối cùng của đời Ngài cũng được ghi nhận trong kinh này.
Ðây quả thật là bài kinh mà người Phật tử thuần thành cũng như những ai muốn học Phật nên đọc, vì nó chứa đựng nhiều Phật ngôn rất quan trọng và rất hữu ích.
Ðức Phật nói lên lời khuyên dạy tối hậu, cho những ai vui lòng hành theo Giáo Huấn của Ngài, trong hiện tại và trong tương lai, với những lời như sau:
Vayadhammà sankhàra. Appamàdena sampàdetha.
“Tất cả các pháp hữu vi (các pháp được cấu tạo) đều vô thường.
Hãy giác tỉnh chú niệm và kiên trì gia công để thành tựu giải thoát”
Với những lời cuối cùng ấy Ðức Bổn Sư nhập diệt. Ngài thành đạt Mahàparinibbàna, Ðại Niết Bàn, hoàn toàn không còn trở thành.
Tại Kusinàrà, điểm chánh yếu cần biết là đền thờ với pho tượng Phật nằm (Matha Kunwarka Kot), tháp Phật nhập Ðại Niết Bàn (Mahàparinirvàna Stupa) liền kế sau nhà ấy, và tháp Angàra Cetiya, nơi cử hành lễ trà tỳ, hỏa thiêu Ðức Phật, khoảng non một dặm Anh cách xa tháp kia. Lẽ dĩ nhiên tháp này đã điêu tàn, nhưng công trình trùng tu đã bắt đầu. Khi A.C. Carlyle khám phá ra pho tượng vào năm 1833, thì chỉ là những mảnh vụn, nhưng ông đã ráp lại một cách rất khéo léo. Pho tượng khổng lồ, dài 20 feet, của Ðức Như Lai ở tư thế nằm nghiêng mình bên mặt, đầu hướng về hướng Bắc, khích động mạnh mẽ nguồn gợi hứng và xúc cảm sùng kính (samvega) nơi khách hành hương có tâm đạo nhiệt thành, và hầu như bất luận ai, khi rời khỏi nơi tôn thờ trang nghiêm này lòng cũng nao nao xúc động.
Trên tảng đá bồ đoàn nơi Phật nằm có ghi những dòng chữ thời thế kỷ thứ V, cho biết danh tánh của thí chủ và của điêu khắc gia.
Deyadharmoyam mahà-vihàraswàmino Haribàlasya Prati-màceyam ghatità Dine Mathurena.
“Ðây là lễ vật cúng dường của Haribàla Swàmi, chùa Mahà Vihàra. Pho tượng do Dina Mathura thực hiện” [8]
Tháp Mahàparinirvàna Stupa (Ðại Niết Bàn) được xây dựng trên địa điểm mà Ðức Bổn Sư Ðại Từ Ðại Bi trút hơi thở cuối cùng và nhập Ðại Niết Bàn, Mahàparinibbàna. Ðịa điểm này được xác nhận, không còn nghi ngờ gì nữa, nhờ những tài liệu ghi tạc trên đá được khám phá có liên quan đến tháp Parinirvàna Caitya.
Lịch sử ghi rằng Hoàng Ðế Asoka đến đây đảnh lễ thánh tích này và có cho xây dựng một ngôi bảo tháp, nhưng sự kiện này chưa được đưa ra ánh sáng. Tháp Parinirvàna Caitya mà những dòng chữ trên đây đề cập đến, được xây cất từ thời đại Gupta và như vậy, có thể là tháp Asoka đã bị chôn vùi phía dưới công trình này.
Chú thích:
[1] E.B. Havell, The History of Aryan Rule in India, page 96.
[2] Hoặc “vua hạ lịnh xây dựng một bức thành bằng đá và gạch,” như F.J. Fleet gợi ý trong JRAS, July 1908, trang 832.
[3] F.J. Fleet, “The Rummindei Inscription and the Conversion of Asoka to Buddhism.” JRAS, April 1908.
[4] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm 26.I. 167.
[5] B.M. Barua, Ceylon Lectures (1945), trang 18.
[6] Như Lai, Tathàgatha, là lối xưng hô của Ðức Phật. Một trong những ý nghĩa khác là “Người đã chứng đắc Chân Lý”.
[7] Dhammacakkappavattana Sutta, Samyutta Nikàya. v. 420.
[8] D. Valisingha, trích từ quyển Buddhist Shrines in India, trang 95.
-ooOoo-