IV- Phỉ
Yếu tố giác ngộ thứ tư là phỉ (pìti). Ðây cũng vậy, là một tâm sở (cetasika), và cũng là một đức tánh có ảnh hưởng sâu rộng bao gồm cả tâm lẫn thân. Người thiếu đức tánh này không thể đi dài theo con đường dẫn đến giác ngộ. Một nỗi buồn mang máng, một trạng thái lãnh đạm lạnh lùng trước thiện pháp, một tình trạng bất mãn đối với thiền tập, một sự biểu lộ bất toại nguyện, sẽ phát sanh đến người thiếu tâm phỉ (pìti). Như vậy, tâm phỉ quả thật là thiết yếu cho người có nguyện vọng và cố gắng thành đạt giác ngộ và giải thoát cuối cùng ra khỏi những ràng buộc của cuộc đi bất định trong vòng luân hồi (samsàra). Người ấy cần phải cố gắng trau giồi giác chi “phỉ” vô cùng quan trọng này. Không ai có thể ban tặng hạnh phúc cho người khác. Mỗi người phải tự xây dựng hạnh phúc cho riêng mình, bằng nỗ lực của chính mình, bằng chú niệm và bằng những sinh hoạt tích cực để làm cho tâm an trụ. Phỉ là một tâm sở, nghĩa là một phần của tâm. Vì lẽ ấy không nên tìm hạnh phúc ở bên ngoài, mặc dầu ở mức độ nhỏ bé nào, cảnh vật bên ngoài cũng ảnh hưởng đến tâm.
Tri túc là đặc điểm của hạnh phúc cá nhân. Người thường trong dân gian hình như có ý nghĩ rằng rất khó trau giồi và phát triển hạnh tri túc. Tuy nhiên, nếu ta kiên trì dũng mãnh, quyết tâm trì chí chú niệm và suy tư chân chánh về những gì mà chúng ta thường gặp hằng ngày, nếu ta kiểm soát những khuynh hướng bất thiện và kềm hảm năng lực lôi cuốn của nhục dục ngũ trần, nếu đè nén những quyến rũ vật chất bất thiện mà thế thường ta riu ríu phục tùng — vâng lịnh một cách hồn nhiên không suy nghĩ — ắt có thể giữ tâm khỏi bị ô nhiễm, và chừng ấy chúng ta có thể cảm giác hạnh phúc của hạnh tri túc. Trong tâm của con người thường xảy diễn những xung đột đủ loại và nếu các cuộc xung đột này phải được kiểm soát, trong khi ta chưa đủ khả năng để loại trừ, con người chớ nên buông lơi để cho những khuynh hướng xấu xa và dục vọng lôi cuốn, nói cách khác phải trau giồi hạnh tri túc. Quả thật là khó mà từ bỏ những gì lừa phỉnh và bắt giữ ta làm nô lệ, và quả thật khó xua đuổi loại tà ma đang chế ngự tâm hồn ta dưới hình thức những tư tưởng xấu xa, bất thiện. Những loại ma quỉ đó là sự biểu hiện của lòng tham, sân, si — lobha, dosa, moha. Cho đến khi thành đạt trạng thái trong sạch và an tĩnh tuyệt đỉnh bằng cách trường kỳ rèn luyện tâm trí, chúng ta không thể hoàn toàn và trọn vẹn chiến thắng những vị khách xấu xa và khó tánh ấy, những người khách đang chế ngự tâm ta. Từ bỏ suông những gì ở bên ngoài như nhịn đói, tắm trong các dòng sông và các suối nước nóng v.v… không thể thanh lọc con người, không thể đem hạnh phúc đến con người, không thể làm cho con người trở thành bậc thánh nhân. Do đó, nhu cầu phát triển và trau giồi con đường trong sạch của Ðức Phật: giới, định, tuệ — sìla, samàdhi, pannà.
Trong tinh thần sambojjhanga, thất giác chi, khi đề cập đến hạnh phúc, ta nên ghi nhận sự khác biệt lớn lao giữa thỏa thích và hạnh phúc. Thỏa thích — cảm giác thích thú — là cái gì tạm bợ nhất thời, chỉ thoáng qua rồi mất. Có sai lầm chăng, khi ta nói rằng cảm giác thích thú chỉ là dấu hiệu báo trước rằng đau khổ sắp đến? Những gì mà trong khoảnh khắc này người ta ôm ấp và tâng tiu như một bảo vật có thể là nguồn đau khổ trong khoảnh khắc kế tiếp. “Vật mà ta mong muốn không còn đó nữa khi ta vói tay nắm lấy nó, hoặc lúc ta vừa nắm được thì nó tan biến như một nắm tuyết.” Theo lời của Robert Burns:
“Lạc thú trên đời không khác nào những cái bông toét nở,
Anh vừa nắm lấy nó thì những tai hoa tả tơi rơi rụng;
Hay cũng như tuyết đổ trên dòng sông,
Vừa thấy trắng sáng bỗng chốc đã mãi mãi tan trong nước.”
— (Tam O’Shanter)
Khi thấy một hình sắc, nghe một âm thanh, hưởi một mùi, nếm một vị, nhận thức một ý nghĩ, thì người ta bị các đối tượng ấy của giác quan và tâm (trần cảnh) kích thích, và cảm nghe ít nhiều thỏa thích. Nhưng tất cả đều là những hiện tượng phù du tạm bợ, vừa phát sanh đã hoại diệt. Loài thú chỉ nhắm vào mục tiêu duy nhất là tìm thỏa thích ở bất luận đâu, với bất cứ giá nào. Con người trái lại, phải cố gắng thành đạt tâm phỉ (pìti), hay hạnh phúc của tâm thanh bình an lạc. Hạnh phúc thật sự không thể đến bằng cách bám níu hay nắm chắc lấy những vật vô tri vô giác hay hữu giác hữu tri, mà chỉ có thể đạt đến bằng hạnh buông bỏ (nekkhamma). Chính thái độ từ khước những gì thuộc về thế gian mới đem lại hạnh phúc thật sự. Kinh Niệm Xứ, Satipatthàna Sutta, có đề cập đến hai trạng thái, thỏa thích của thế gian (sàmisa sukha) và thỏa thích siêu thế gian (niràmisa sukha). Niràmisa cao quý hơn sàmisa sukha nhiều.
Một lần nọ Ðức Phật vào thôn xóm trì bình mà không có chút gì để độ ngọ và một người tọc mạch để ý rằng Ðức Bổn Sư có vẽ bị đói. Nhân đó Ðức Thế Tôn giải thích thái độ tinh thần của người đã thoát ra khỏi mọi chướng ngại như sau:
“Hạnh phúc thay Như Lai sống
Không bị chướng ngại,
Dưỡng nuôi phỉ lạc, Như Lai lúc nào
Cũng như các vị Trời ở cảnh Quang Âm Thiên.” [20]
Hạnh phúc sẽ đến với người suy tư như sau: “Có kẻ gây tổn thương cho người khác, ta sẽ không làm tổn hại bất cứ ai. Kẻ khác có thể giết hại sanh linh nhưng ta không sát hại chúng sanh nào. Kẻ khác có thể hành động tà dâm, nhưng ta sẽ luôn luôn trong trắng. Kẻ khác có thể gian dối, nhưng ta luôn luôn chân thật. Kẻ khác có thể nói lời đâm thọc, thô lỗ, hay nhảm nhí, nhưng ta chỉ nói những lời đem lại hòa hợp, những lời thanh lịch, êm tai, đầy tình thương, những lời làm cho tâm trí mát mẻ an lành, những lời đáng nói, đúng lúc, đúng nơi, thích nghi với hoàn cảnh. Kẻ khác có thể tham lam, nhưng ta sẽ không tham. Ta sẽ tinh tấn, khiêm tốn, luôn luôn chân thật và liêm chánh, an tĩnh, tri túc, rộng lượng và thành thật trong mọi trường hợp.” Như thế ấy, giác chi phỉ, yếu tố thứ tư của thất giác chi, sẽ dẫn đến giác ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, Niết Bàn.
V- An tĩnh
Passaddhi, an, hay vắng lặng, an tĩnh, là giác chi thứ năm. Passaddhi có hai:
- Kàya passaddhi là Thân an. Kàya ở đây có nghĩa là toàn thể các tâm sở chớ không phải là cơ thể vật chất. Nói cách khác, là trạng thái an tĩnh, vắng lặng của thọ uẩn (vedanàkkhandha), tưởng uẩn (sannàkkhandha), và hành uẩn (sankhàrakkhandha).
- Citta-passadhi, Tâm an, là trạng thái an tĩnh của thức uẩn (vinnànakkhandha).
Passaddhi, an, có thể ví như cảm giác an tĩnh vắng lặng của người đi đường mệt mỏi, lúc ngồi lại dưới tàng bóng mát mẻ của một cội cây, hay có thể ví như trạng thái thoải mái dễ chịu của người đang ở chỗ nóng nực được một cơn mưa mát mẻ tưới xuống. Lắng tâm là việc khó thực hiện. Tâm luôn luôn chao động và có khuynh hướng không bao giờ ở yên một chỗ. Rất khó cột tâm và rất khó kéo tâm trở lại. Tâm ở trong trạng thái giống như con cá mới bị bắt ra khỏi nước và bị vứt lên trên đất khô. Nó phóng nhảy đầu này đầu kia bất định [21]. Ðó là bản chất của cái tâm vô cùng tế nhị. Chính sự chú tâm suy tư chân chánh (yoniso manasikàra) giúp cho người có nguyện vọng thành đạt giác ngộ kềm lại, làm cho cái tâm chao động trở nên yên tĩnh. Chỉ khi nào có trau giồi tâm “an” vắng lặng mới có thể thành công định tâm. Một cái tâm an tĩnh giữ cho tâm không có những tư tưởng nông cạn và vô ích.
Nhiều người ngày nay nghĩ rằng tự do là sống buông lung không bị hạn chế, còn tự rèn luyện, tự khép mình vào khuôn khổ kỷ cương, tự uốn nắn lấy mình là cản trở sự phát triển cá nhân. Giáo lý của Ðức Phật dạy khác hẳn. Cái tự ngã phải được khắc phục và thuần hóa theo đúng chiều hướng để trở nên thật sự tốt đẹp. Ðức Phật, bậc Ðã Ðược Thuần Hóa, truyền dạy Giáo Pháp với chủ đích thuần hóa tâm của con người (danto so Bhagavà dama-tàya dhammam deseti) [22].
Chỉ khi nào được an tĩnh vắng lặng và được hướng dẫn trong vòng trật tự, theo chiều hướng tiến bộ chân chánh, tâm mới có thể trở nên hữu dụng, cho mình và cho xã hội. Tâm vô trật tự là một hiểm họa cho tự cá nhân mình và cho kẻ khác. Tất cả những hiểm họa tàn phá trên thế gian đã được gây nên do những người không biết làm thế nào để tâm được an tĩnh, quân bình, ổn định. Bình tĩnh và trầm lặng không phải là yếu hèn. Thái độ trầm tĩnh lúc nào cũng biểu lộ một con người có văn hóa. Trong khi tất cả mọi sự vật quanh ta đều được an bài một cách thuận lợi thì giữ mình trầm tĩnh không phải là điều khó làm. Nhưng giữ tâm bình thản giữa những nghịch cảnh thì quả thật là khó, và chính cái đức độ khó có được ấy mới là điều đáng cho ta tận lực cố gắng thành tựu, bởi vì nhờ kiểm soát tâm như vậy ta xây dựng cho chính mình một bẩm tánh dũng mãnh và cương nghị. Ðiều đáng thất vọng nhất trên thế gian là tưởng tượng rằng chỉ có những người ồn ào mới thật là dũng mãnh, hay chỉ có những người lăng xăng rối rít cả ngày mới thật sự có quyền năng.
Người đã trau giồi tâm vắng lặng không còn phiền lụy, bối rối hay cảm kích khi phải đương đầu với tám pháp thăng trầm của thế gian (atthaloka dhamma). Người ấy cố gắng nhận thấy trạng thái phát sanh và hoại diệt của những sự vật được cấu tạo, vạn pháp sanh rồi diệt như thế nào. Không còn phiền muộn lo âu, người ấy sẽ thấy rõ tánh cách mỏng manh và nhất thời trong những sự vật phù du tạm bợ, chỉ tồn tại nhất thời. Kinh điển có ghi lại câu chuyện một bà mẹ, được hỏi sao không than khóc cái chết của người con yêu quý, bà trả lời:
“Không ai mời mọc, nó đến.
Cũng không ai mời mọc, nó đi.
Ðến như thế nào, nó ra đi cùng thế ấy.
Vậy than khóc có ích gì? Rên rỉ ích gì?” [23]
Ðó là lợi ích của tâm an tĩnh vắng lặng. Không chao động trong những hoàn cảnh lợi lộc và lỗ lã, danh thơm và tiếng xấu, được tán dương và bị khiển trách, hạnh phúc và đau khổ, và không bàng hoàng hay phiền muộn trước những nghịch cảnh của kiếp sinh tồn. Muốn có được tâm bình thản như thế ấy phải nhìn thế gian vô thường này đúng trong bối cảnh của nó. Vậy, trạng thái an tĩnh (passaddhi) dẫn con người đến giác ngộ và giải thoát con người ra khỏi mọi khổ đau của đời sống.
VI- Ðịnh
Yếu tố thứ sáu của sự giác ngộ là định (samàdhi). Chỉ có tâm an tĩnh mới dễ dàng gom trụ vào đề mục hành thiền. Tâm an và trụ thấy sự vật đúng theo chân tướng của nó (samàhito yathà bhùtam pajànàti). Tâm an trụ vào một điểm có khả năng chế ngự năm chướng ngại tinh thần (panca nìvaranàni, năm pháp triền cái).
Ðịnh là trạng thái tâm ổn định vững chắc, có thể ví như ngọn đèn vững vàng đứng ngọn, không chao động, ở một nơi không gió. Chính trạng thái định giữ vững tâm ngay thẳng và làm cho tâm không lay chuyển, không vọng động. Khi thực hành đúng, định giữ tâm và các tâm sở trong trạng thái quân bình, cũng như cán cân được giữ vững giữa hai bàn cân. Chánh định tiêu trừ những khát vọng vốn làm cho tâm vọng động và cùng lúc thanh lọc ô nhiễm, làm cho tâm trở nên tinh khiết. Tâm định không bị nhục dục ngũ trần làm chao động. Khi tâm định được phát triển đến cao độ thì dầu ở hoàn cảnh trái nghịch nào cũng không bị khuấy động.
Ngưòi quyết tâm trau giồi định phải nghiêm trì giới luật, sìla, bởi vì giới đức nuôi dưỡng đời sống tâm linh và làm cho tâm an trụ và vắng lặng, quân bình và dồi dào phong phú. Tâm buông lung tự làm cho mình rời rạc bằng những sinh hoạt vô ích.
Người hành thiền, người có nguyện vọng thành tựu giác ngộ, phải đương đầu với rất nhiều chướng ngại. Nhưng đặc biệt có năm pháp gây trở ngại mạnh mẽ cho tâm định, samàdhi, và chận ngang con đường giải thoát. Trong giáo huấn của Ðức Phật năm pháp ấy được gọi là panca nìvarana, năm pháp triền cái. Danh từ Phạn ngữ nìvarana có nghĩa là cái gì gây trở ngại, hay cản ngăn công trình phát triển tinh thần (bhàvana). Ðược gọi là nìvarana, triền cái, bởi vì nó khóa chắc lại, cắt đứt lìa và chận ngang. Nó đóng chắc lại cánh cửa giải thoát.
Năm pháp triền cái là:
- Tham dục (kàmacchanda),
2. Oán ghét (vyàpàda),
3. Tâm dã dượi và hôn trầm (thina-middha),
4. Phóng dật và lo âu (uddhacca-kukkucca), và
5. Hoài nghi (vicikicchà).
Kàmacchandha hay tham dục, hay thèm khát mạnh mẻ các sở hữu, hoặc muốn thỏa mãn những dục vọng thấp hèn, là chướng ngại đầu tiên cột trói chúng sanh trong cuộc đi bất định trong vòng luân hồi (samsàra), và đóng chắc cánh cửa giải thoát.
Dục vọng là gì? Ái dục (tanhà) ấy xuất xứ và khởi sanh từ đâu? Theo kinh Niệm Xứ (Satipatthàna), “Nơi nào có hoan hỷ và thỏa thích thì ái dục bắt nguồn và khởi sanh.” Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp là những nơi có tánh cách hoan hỷ và thỏa thích, nơi ấy ái dục bắt nguồn và phát sanh. Khi ái dục bị ngăn cản thì trở thành bất mãn và phẩn nộ. Như Kinh Pháp Cú, câu 216, dạy:
Tanhàya jàyati soko — tanhàya jàyati bhayam
Tanhàya vippamuttassa — natthi soko kuto bhayam.
“Ái dục sanh sầu muộn, ái dục sanh lo sợ,
Người đã trọn vẹn dập tắt ái dục không còn sầu muộn,
Càng ít lo sợ”.
Pháp triền cái kế đó là vyàpàda, oán ghét, ác ý, sân hận, hay bực mình khó chịu. Một cách tự nhiên, con người nổi dậy chống đối những gì không vừa lòng thích ý hay không làm cho mình thỏa mãn và cũng chán nản vì những điều này. Xa cách người thân kẻ yêu là đau khổ, và kết hợp với người mình không ưa thích cũng đau khổ dường ấy. Chí đến một món ăn không vừa miệng, một thức uống không hợp ý thích, một tư cách khó thương, và trăm ngàn nghịch cảnh khác mà ta có thể gặp trên đường đời làm cho ta bất toại nguyện. Chính vì suy tư lầm lạc, chú ý không chân chánh (ayonisso manasikàra) mà ta tức giận. Ðàng khác, sân hận dưỡng nuôi sân hận và làm lu mờ trí óc, bóp méo toàn thể cái tâm và những tâm sở và do đó, gây trở ngại cho trạng thái giác tỉnh, ngăn chận ánh sáng chân lý và khóa chắc con đường đưa đến giải thoát. Tham và sân đặt nền tảng trên si mê và nằm trong lớp mây mờ vô minh, đỉnh cao điên rồ của chúng ta (avijjà paramam malam). Tham, sân, si, quả thật là căn nguyên của tất cả mọi xung đột, mọi tranh chấp và mọi chia rẽ giữa người và người, quốc gia và quốc gia.
Chướng ngại tinh thần thứ ba bao gồm cặp tệ hại thìna và middha, dã dượi và hôn trầm.Thìna là sự mệt mỏi, hay trạng thái dã dượi của tâm vương và middha, hôn trầm, là trạng thái dã dượi của tâm sở. Thìna và middha, dã dượi và hôn trầm, không phải là tình trạng nhuể nhoại biếng nhác thuộc về cơ thể, như vài người có chiều hướng nghĩ như vậy, bởi vì chí đến chư vị A La Hán, bậc Toàn Hảo, đã tận diệt cặp triền cái này, vẫn còn thọ cảm tình trạng mệt mỏi của cơ thể. Dã dượi hôn trầm làm chậm trể mọi công trình phát triển tâm linh. Do ảnh hưởng của cặp dã dượi và hôn trầm tâm không thể hoạt động hữu hiệu vì như cục bơ đặc quá, cứng, không thể trét lên bánh, hay như mạch nha dính trên muỗng.
Trạng thái hôn trầm là kẻ thù nguy hại của công trình phát triển tâm linh. Trạng thái hôn trầm dẫn đến hôn trầm hơn và cuối cùng, đến tâm trạng dửng dưng chai đá. Bẩm tánh mềm yếu như vậy là một chướng ngại nguy hại trên con đường đưa đến chân chánh và tự do. Nhờ tinh tấn, viriya, hay nỗ lực tinh thần, có thể khắc phục tệ hại trên.
Pháp triền cái thứ tư bao gồm cặp uddhacca và kukkucca, phóng dật và lo âu. Thông thường tâm của người có lỗi không yên mà bồn chồn lo lắng. Kẻ có tội và người thiếu kiên nhẫn thường bị chướng ngại này. Tâm phóng dật và không ổn định giống như bầy ong vỡ ổ. Tình trạng chao động tinh thần như vậy gây trở ngại cho công phu hành thiền và khóa kín con đường hướng thượng. Lo âu cũng tai hại dường thế ấy. Người ta thường ăn năn những tội lỗi mà mình đã phạm. Ðức Phật không tán dương thái độ hối tiếc ấy, bởi vì khi sữa đã rơi đổ xuống đất thì có than khóc mấy cũng không lợi ích gì. Thay vì khóc than rên rỉ những thiếu sót như vậy, ta nên quyết tâm cố gắng không còn lặp lại hành động bất thiện tương tợ trong tương lai. Có người băn khoăn lo lắng vì đã chểnh mãng bỏ lỡ một cơ hội tạo thiện nghiệp, hay đã lãng quên một phận sự. Ðiều này cũng vậy, vô ích. Làm như thế không khác nào đứng trên một bờ sông rồi bảo cái bờ bên kia xích lại gần để mình bước qua. Thay vì luống công vô ích, như lo âu về các hành động thiện mà ta bỏ lỡ không làm, hãy cố gắng tích cực tạo thiện nghiệp. Trạng thái bất ổn định tinh thần (kukkucca, lo âu) cũng là một chướng ngại cho tiến bộ.
Triền cái thứ năm và cuối cùng là vicikicchà, hoài nghi. Danh từ vi + cikiccà, đúng theo nghĩa từng chữ, là không thuốc chữa. Người mang tật hoài nghi quả thật đã mắc phải một chứng bịnh nan y, và cho đến chừng nào xa lìa hoài nghi ta vẫn còn phải chịu khổ đau vì bịnh này. Ngày nào mà còn hoài nghi thì con người còn tiếp tục có một quan kiến bất định về sự vật, và đó là một thiệt hại vô cùng trọng đại cho công trình phát triển tâm linh. Các nhà chú giải giải thích rằng hoài nghi này là không thể quyết định điều gì một cách chắc chắn. Hoài nghi ở đây cũng là không tin rằng người ta có thể đắc thiền (jhàna). Về điểm này ta có thể thêm rằng dầu là người không phải Phật tử hay không biết gì đến Tam Bảo cũng có thể khắc phục triền cái hoài nghi (vicikicchà) và đắc thiền (jhàna).
Hành giả đã đắc thiền tạm thời chế ngự năm chướng ngại bằng năm chi thiền (jhànanga). Chi thiền ekaggatà (trụ) chế ngự triền cái kàmacchandha (tham dục); pìti (phỉ) chế ngự vyàpàda (oán ghét); vitakka (tầm) chế ngự thìna-middha (dã dượi và hôn trầm); sukha (lạc) chế ngự uddhacca-kukkucca (phóng dật và lo âu); và vicàra (sát) chế ngự vicikicca (hoài nghi). Tuy nhiên, đắc thiền (jhàna) không phải là mục tiêu cứu cánh mà hành giả nhắm đến. Thiền phải dẫn đến minh sát (vipassanà). Do nhờ minh sát mới tận diệt những ô nhiễm tiềm tàng ngủ ngầm (anussaya kilesa) và thành tựu trạng thái hoàn toàn trong sạch.
Ngày nào các ô nhiễm (kilesa) còn tiềm tàng tồn tại trong tâm con người, ngày ấy ác pháp (pàpa) còn có thể tiếp tục phát sanh. Người đã đắc thiền (jhàna) vẫn còn phải nhắm đến mục tiêu cao hơn, là minh sát. Người đắc thiền không tạo nghiệp bất thiện vì đã chế ngự năm pháp triền cái, tuy nhiên, ô nhiễm vẫn còn tiềm tàng sâu kín bên trong và như vậy, chưa đạt đến trạng thái tuyệt đối châu toàn.
Nhưng vị A La Hán, bậc Toàn Hảo, đã gội rửa tất cả mọi ô nhiễm đến tận cùng gốc rễ và đã chấm dứt mọi cuộc đi thênh thang bất định trong vòng luân hồi. Ngài là bậc đã chắc chắn chấm dứt mọi cuộc sống, bởi vì đã làm cho kiếp sống cao quý của Ngài trở nên toàn hảo, hoàn toàn trong sạch và đã hoàn tất viên mãn những gì cần phải làm. Ðối với Ngài không còn kiếp sống nào khác [24].
Một sinh viên chuyên cần, chăm chú thâm sâu vào bài học, cắt đứt liên lạc với mọi yếu tố khuấy động bên ngoài, rút vào một nơi yên tĩnh và tự bao trùm quanh mình bầu không khí thuận lợi cho việc học, và chỉ lo học. Sinh viên này sẽ thành công, đến kỳ thi sẽ đậu. Cùng thế ấy, vị hành giả rút vào tịnh thất hay một nơi yên tĩnh khác, “tách rời xa những cuộc tranh chấp thấp hèn của đám đông cuồng loạn”, chú tâm vào đề mục hành thiền (kammatthàna) và chiến đấu, không ngừng tinh tấn chế ngự năm triền cái, thanh lọc mọi ô nhiễm trong luồng tâm, và dần dần đạt đến sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, rồi từ đó, nhờ năng lực của tâm định (samàdhi) hướng tâm quán chiếu sự vật để thấu đạt thực tại, trong ý nghĩa cao siêu nhất. Ðến giai đoạn này hành giả trau giồi thiền minh sát, vipassanà. Nhờ minh sát ta mới thấu đạt trọn vẹn bản chất thật sự của tất cả các pháp hữu vi và các vật được cấu tạo. Thiền minh sát giúp ta thấy sự vật đúng thực chất của sự vật, thấy như thật sự, sự vật là như vậy, thấy chân lý diện đối diện và nhận thức rằng tất cả những giọng điệu chỉ là những âm thanh khác nhau phát xuất từ một cây đờn và ngân nga từ kiếp này sang kiếp khác. Sợi dây đờn được làm ra bằng chất liệu vô thường, khổ, vô ngã (anicca, dukkha, anattà).
Hành giả hướng tuệ minh sát (vipassana nàna) vào bản chất thật sự của thế gian mà đã từ lâu mình vẫn chặt chẽ bám níu vào. Bây giờ hành giả khảy mỏ, phá vỡ cái vỏ trứng của vô minh để tưng bừng mở tung ra cánh cửa siêu thế. Với sự thanh lọc trọn vẹn cuối cùng này hành giả đã thành đạt mức độ tiếp nhận ánh sáng của Niết Bàn, trạng thái vắng lặng mà không ngôn ngữ tại thế nào có thể diễn đạt, sự giải thoát tâm không thối chuyển (akuppà ceto-vimutti) [25].
Kinh Pháp Cú dạy:
“Ðối với vị tỳ khưu đã rút vào nơi ẩn dật, đã giữ tâm vắng lặng, và đã ngộ rõ Giáo Pháp, vị ấy chứng đạt phỉ lạc siêu trần.” — (Câu 373)
VII- Xả
Giác chi thứ bảy mà cũng là yếu tố giác ngộ cuối cùng là upekkhà, xả. Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), upekkhà, cũng được gọi bằng một danh từ khác là tatra-majjhattatà, có nghĩa trung lập, không thiên bên nào. Ðó là trạng thái tâm quân bình chớ không phải tâm lãnh đạm thờ ơ hay thản nhiên dửng dưng. Trạng thái tâm quân bình hay xả, là kết quả của tâm định an tĩnh vắng lặng.
Quả thật là khó tránh khỏi bị chao động khi phải va chạm thường xuyên với những thăng trầm của cuộc sống, nhưng người có trau giồi đức tánh “xả” khó có được này không còn cảm nghe phiền lụy bực mình. Giữa những cơn bão táp của tám pháp thế gian (attha loka dhamma), lợi lộc và lỗ lã, danh thơm và tiếng xấu, tán dương và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ, người có tâm xả không bao giờ lay động. Người ấy vững chắc như tảng đá to. Dĩ nhiên đó là thái độ của một vị A La Hán, bậc Toàn Hảo. Ðể mô tả tâm trạng bình thản của Ngài có câu: “Người tốt buông xả tất cả. Bậc thánh nhân không nghĩ đến ái dục. Dầu hạnh phúc hay đau khổ bậc thiện trí không bồng bột cũng không để tinh thần suy sụp.” [26]
Kiêng cữ các chất say vốn có thể làm lu mờ tâm trí và một cách kiên trì, kiên cố vững chắc trong hạnh nhẫn nhục và trong sạch, bậc thiện trí rèn luyện tâm và nhờ đó thành tựu trạng thái vắng lặng, tự tại.
Kinh điển có ghi bốn con đường sai lạc (cattàro agatti). Con đường tham ái (chanda), con đường sân hận (dosa), con đường yếu hèn (bhaya), và con đường si mê (moha). Người ta tạo nghiệp bất thiện vì đi dài theo một hay nhiều con đường sai lạc ấy, nhưng người hoàn toàn bình thản nhờ đã trau giồi tâm xả thì luôn luôn xa lánh. Trạng thái vô tư và hoàn toàn tinh khiết của người có tâm xả làm cho người ấy nhìn sự vật và chúng sanh một cách bình đẳng, không thiên vị, với tâm thản nhiên.
Người thật sự muốn trau giồi tâm xả cần phải hiểu biết về sự báo ứng của nghiệp, nhân đã gieo sẽ trổ quả như thế nào. Trong ánh sáng của định luật nghiệp báo ta sẽ có thể chấp nhận một thái độ buông xả đối với tất cả chúng sanh, hơn nữa, đối với những vật vô tri vô giác. Nguyên nhân kế cận đưa đến tâm xả là sự nhận thức rằng tất cả mọi chúng sanh đều là kết quả của nghiệp mình.
Trong Bodhicaryàvatàra, Shàntideva viết như sau:
“Có người không ưa ta. Như vậy
Tại sao ta thỏa thích khi được ca tụng?
Có người khen tặng ta. Như vậy
Tại sao ta than van trước những lời khiển trách?
“Người tự chủ luôn luôn có nụ cười trên môi;
Người ấy đã lìa bỏ gương mặt cau có,
Sẵn sàng tiếp đón người khác, và chia sớt
Tất cả gì mình có. Người bạn của toàn thể thế gian,
Chân Lý sẽ tôn vương.”
Ðây là những nét đại cương của thất giác chi mà Ðức Thế Tôn đã giảng giải hơn 2,500 năm về trước, nhằm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, Niết Bàn, Vô Sanh Bất Diệt. Trau giồi phát triển hay quên lãng bỏ lơ các yếu tố này là phần việc của ta, của từng người trong chúng ta. Nhờ sự hỗ trợ của Giáo Pháp mỗi người chúng ta có đủ khả năng để khám phá và tiêu trừ nguồn gốc của đau khổ. Từng cá nhân một, mỗi người có thể vận dụng nỗ lực cần thiết để thành đạt giải thoát cho chính mình. Ðức Phật dạy ta làm thế nào để am tường thực tướng của đời sống và chỉ dẫn hướng đi cho mỗi người chúng ta. Vậy, chúng ta chỉ nương nhờ nơi chính ta để tự mình tìm ra chân lý của đời sống và hưởng dụng kiến thức ấy một cách có lợi ích. Ta không thể nói để chạy tội rằng chúng ta không biết phải làm thế nào. Trong giáo lý của Ðức Phật không có gì là mờ ám. Tất cả chỉ dẫn cần thiết đã được trình bày rõ ràng. Giáo Pháp từ đầu đến cuối đã được mở rộng cho tất cả những ai có mắt muốn thấy và có tâm trí để hiểu biết. Về phần chúng ta, điều cần thiết duy nhất phải làm để chứng ngộ trọn vẹn chân lý là quyết tâm trì chí, gia công học và đem điều đã học ra thực hành trong đời sống hằng ngày, mỗi người cho chính mình, mỗi người cố gắng hết sức của mình. Giáo Pháp hãy còn vẩy tay chào đón khách hành hương mệt mỏi để đưa vào một cảnh trời cao đẹp nào hay hơn nữa, đưa đến trạng thái châu toàn và thanh bình an lạc của Niết Bàn. Chúng ta hãy tinh tấn lên, hãy trau giồi thất giác chi với tâm đạo nhiệt thành, với ý chí dũng mãnh, và thẳng tiến.
“Hồi tưởng đến các bậc Thánh Nhân thời xa xưa,
Và nhớ lại các Ngài đã sống như thế nào,
Chí đến ngày nay, mặc dầu chỉ là đàn hậu tấn —
Ta vẫn còn có thể thành tựu
Con Ðường Cao Thượng của Thanh Bình.” [27]
Chú thích:
[1] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 72.
[2] Tạp A Hàm, v, trang 63.
[3] “Dhamma” là một danh từ có nhiều ý nghĩa. Nơi đây, nó có nghĩa là danh và sắc (nàma-rùpa); Dhammavicaya là phân biện hay phân tách luồng trôi chảy của tâm và thân, và của tất cả các pháp hữu vi.
[4] Samyutta Nikàya, v, 81.
[5] Cùng bài kinh trên.
[6] Aldous Huxley, Ends and Means (London, 1946), trang 259.
[7] Sammoha Vinodani.
[8] Satipatthàna Sutta, Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 10, hoặc Dìgha Nikàya, Trường A Hàm. 22. Xem The Foundations of Mindfulness, do Nyanasatta dịch (Kandy: BPS) Wheel 19.
[9] Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, 16/II. 156.
[10] Chú Giải kinh Satipatthàna Sutta, Tứ niệm xứ.
[11] Phẩm Sagàthaka Vagga, Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm.
[12] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 32.
[13] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, iv, 232
[14] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 374.
[15] Anguttara Nikàya, Tăng nhứt A Hàm, iv, 232.
[16] Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, 16/II. 100.
[17] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, ii, 14-15.
[18] Ðể có thêm chi tiết xin đọc The Removal of Distracting Thoughts, do Soma Thera dịch (Kandy: BPS). Cũng xin xem Phụ bản VI, Chương 10
[19] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 280.
[20] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 200.
[21] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 33-36.
[22] Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, 25/III. 541.
[23] Túc Sanh Truyện Uraga Jàtaka, 354.
[24] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 27.
[25] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm 30/I. 205.
[26] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 83.
[27] Psalms of the Brethen (Theragàthà, Trưởng Lão Tăng Kệ) v, 947.
-ooOoo-