TĂNG SỰ GIAO Y KAṬHINA
(KAṬHINADĀNA)
Sau khi mãn hạ, thời gian từ 16 tháng 9 âl đến rằm tháng10, tháng cuối của mùa mưa, nếu có thí chủ cúng dường vải may y đến chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo đước phép thọ lảnh để làm y Kaṭhina.
Tại một chùa hay một trú xứ an cư chư Tỳ-kheo chỉ được phép lãnh y Kaṭhina một lần, một dịp sau khi ra hạ; chư tăng sẽ chọn giao y Kaṭhina cho một vị Tỳ-kheo nào đó, vị ấy thọ lãnh (atthataṃ) và các vị khác trong chùa sẽ tùy hỷ (anumodanā), và như thế tất cả Tỳ-kheo ở đó sẽ được hưởng năm lợi ích (anisaṃsa) đồng nhau; tức là suốt thời gian từ ngày thọ y đến hết mùa nắng (gimha-utu) vị Tỳ-kheo lìa tam y cách đêm không phạm tội ưng xả đối trị, cất giữ y dư quá mười ngày không phạm tội ưng xả đối trị, rủ nhau thành nhóm thọ thực biết trước món ăn không phạm tội ưng đối trị, đi vào xóm chưa kiếu từ vị sư bạn cũng không phạm ưng đối trị, và được hưởng chia bất cứ lợi lộc nào phát sanh tại đấy. Ðó là năm lợi ích cho vị lãnh và vị tùy hỷ y Kaṭhina .
CÁCH THỨC TÁC THÀNH Y KAṬHINA:
Tăng sự giao y Kaṭhina túc số tăng tối thiểu cũng phải có năm vị Tỳ-kheo, 4 vị giao cho một vị, phải cử hành trong phạm vi Sīmā (ngoại trừ việc nguyện thọ y và tùy hỷ y, có thể làm ngoài Sīmā).
Vị Tỳ-kheo được chọn để giao thọ y Kaṭhina phải là vị đã nhập hạ tròn đủ (không đứt hạ, không phải hậu thời an cư rằm tháng bảy), vị ấy có y cũ rách, thông hiểu cách thức làm Kaṭhina.
Khi giao y cho vị Tỳ-kheo thọ lãnh Kaṭhina cần phải làm tăng sự nhị bạch tuyên ngôn (ñattidu-tiyakammavācā) như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ saṅgho imaṃ Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya Kaṭhinaṃ attharituṃ. Esā ñatti. Suṇātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Saṅgho imaṃ Kaṭhina-dussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno deti Kaṭhinaṃ at-tharituṃ. Yass’ āyasmato khamati imassa Kaṭhina-dussassa Itthannāmassa bhikkhuno dānaṃ kaṭhi-naṃ attharituṃ so tuṇh’ assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dinnaṃ idaṃ saṅghena Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno Kaṭhinaṃ attharituṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Nếu đã hợp thời với tăng, chúng tăng nên giao vải Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y Kaṭhina. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Chúng tăng nên giao vải Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y kaỉhina; sự giao vải Kaṭhina nầy cho Tỳ-kheo tên vậy làm y Kaṭhina, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì vị ấy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nói ra.
Vải Kaṭhina này đã được tăng giao cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y Kaṭhina, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
*
Sau khi tuyên ngôn, vị Tỳ-kheo được tăng giao vải Kaṭhina phải nhanh chóng làm cho xong y trong ngày, tuần tự công việc là đo, cắt, lược, may, giặt, nhuộm, và làm dấu hoại sắc.
Làm dấu hoại sắc, là dùng mực màu xanh hoặc đen hoặc xám, khuyên tròn bốn góc y, dấu khuyên cỡ bằng tròng mắt gà, lúc đang làm dấu phải tác ý:
Imaṃ bindukappaṃ karomi,
Ta làm dấu này.
Ngày nay thí chủ thường dâng Kaṭhina với y may sẳn nên vị Tỳ-kheo không bận việc may nhuộm nữa, chỉ còn công việc là làm dấu y (bindukappa) thôi.
Làm dấu y mới xong, phải xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới. Vải Kaṭhina đã may thành một y nào trong tam y, thì xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới phải theo thứ đó; chẳng hạn may y Kaṭhina là y Tăng-già-lê (saṅghāṭi), thì xả bỏ y Tăng-già-lê cũ, và nguyện tên y Tăng-già-lê mới.
Lời xả tên y cũ (paccuddhara) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ [6] paccuddharāmi.
Ta xả bỏ y tăng-già-lê này.
Lời nguyện tên y mới (adhiṭṭhāna) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ adhiṭṭhāmi.
Ta chú nguyện y tăng-già-lê này.
Khi vị Tỳ-kheo ấy đã hoàn tất y, may làm dấu, chú nguyện, và đắp mặc rồi hãy đến trước Tăng chúng mà tuyên bố sự thành tựu y Kaṭhina, như sau:
Imāya saṅghaṭiyā [7] Kaṭhinaṃ attharāmi.
Tôi thọ Kaṭhina với y Tăng-già-lê nầy.
Nếu trong chùa đó có nhiều vị Tỳ-kheo đã cùng nhập hạ thì vị thọ lãnh y Kaṭhina ấy tiếp theo đó phải kêu gọi các vị trong chùa tùy hỷ Kaṭhina với mình, hãy nói như sau:
Atthataṃ bhante [8] saṅghassa Kaṭhinaṃ dhammiko Kaṭhinatthāro anumodatha [9].
Bạch quí Ngài, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành, sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp xin quí Ngài hãy tùy hỷ.
Các vị trong chùa ấy đồng nói lời tùy hỷ, như sau:
Atthataṃ āvuso saṅghassa Kaṭhinaṃ dham-miko Kaṭhinatthāro anumodāma.[10]
Hiền giả, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp, chúng tôi xin tùy hỷ.
*
Trong thời gian hưởng quyền lợi do hiệu lực Kaṭhina, vị Tỳ-kheo đã thọ hoặc tùy hỷ không nên rời khỏi trú xứ ấy với ý nghĩ là ta sẽ không trở lại chỗ này; vì hai điều kết buộc hiệu lực Kaṭhina là y chưa thành (cīvarapalibodha) và chỗ an cư (āvāsa-palibodha); nay y đã Kaṭhina hoàn thành rồi, chỉ còn một điều kết buộc hiệu lực Kaṭhina tức là vương vấn chỗ an cư.
Tuy nhiên, hiệu lực Kaṭhina vẫn có một lý do khác làm hoại mất, ấy là chư tăng trong chùa đồng lòng xả bỏ hiệu lực.
Khi có duyên cớ phải xả hiệu lực Kaṭhina, như có thí chủ yêu cầu để cúng dường lợi lộc đến khách tăng chẳng hạn, thì chư tăng trong chùa nếu xét hợp lý hãy họp tăng, và làm tăng sự hủy hiệu lực Kaṭhina(Kaṭhinuddhara). Một vị thông thạo luật sẽ tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho Kaṭhinaṃ uddha-reyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho. Saṅgho Kaṭhinaṃ uddharati. Yass’ āyasmato khamati Kaṭhinassa uddharo so tuṇh’ assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Ubbhataṃ saṅghena Kaṭhinaṃ khamati saṅghassa tasmā tuṇhī . Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch Ðại đức tăng,xin hãy nghe tôi, nếu đã hợp thời với Tăng, thì tăng phải xả bỏ Kaṭhina. Ðó là lời bố cáo.
Bạch Ðại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Tăng xả bỏ Kaṭhina Ṣự xả bỏ Kaṭhina, Tôn giả nào chấp nhận thì vị ấy im lặng, bằng như vị nào không đồng ý phải nói ra. Hiệu lực kaỉhina đã được tăng xả bỏ rồi; Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
Khi Tăng đã đồng lòng xả bỏ hiệu lực Kaṭhina bằng tăng sự nhị bạch tuyên ngôn như thế thì hiệu lực Kaṭhina không còn nữa, dù có một vị Tỳ-kheo nào trong chùa bận vắng mặt không dự tăng sự nhưng cũng hết quả báo (anisaṃsa) cùng lúc với các vị ở chùa.
DỨT SỰ GIAO Y KAṬHINA
-ooOoo-