Chương 10 – Tăng Sự Trị Phạt Tội Tăng Tàng – Xử Lý Tội Che Giấu Thời Gian Không Rõ

XỬ LÝ TỘI CHE GIẤU THỜI GIAN KHÔNG RÕ

Trường hợp Tỳ-kheo phạm tội tăng tàng cũng che giấu, nhưng đây không xác định được thời gian vì không nhớ rõ. Trường hợp này Tăng phải sử biệt trú với thời gian phỏng định trừ ra thời gian thanh tịnh của vị ấy, thí dụ như vị ấy tu được mười hạ, nhớ rằng sáu hạ đầu thanh tịnh, như vậy Tăng sẽ cho biệt trú về tội che giấu thời gian là bốn năm v.v…

Nếu đang khi biệt trú mà chợt nhớ ra thời gian chính xác đã che giấu, thì phải khai báo với Tăng để thêm hoặc bớt thời gian biệt trú.

Trường hợp xử lý tội che giấu nầy, gọi là Suddhantaparivāsa.

Cũng trải qua ba giai đoạn: biệt trú (pari-vāsa), tự hối (mānatta), phục vị (abbhāna).

Cách thức Suddhantaparivāsakamma:

Tỳ-kheo ấy đi đến Tăng, và xin biệt trú như sau:

Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipari-yantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi ratti-pariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rat-tipariyante vematiko. So’ haṃ bhante saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yācāmi. Duti-yampi ahaṃ bhante …pe… Tatiyampi ahaṃ bhante. pe.”

Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Bạch, tôi xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Lần thứ nhì … nt … lần thứ ba … nt …

Tăng phải được thông qua tuyên ngôn để cho biệt trú đến Tỳ-kheo ấy, như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarā-mi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantapari-vāsaṃ dadeyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yā-cati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ suddhantaparivāsaṃ deti. Yass’āyasmato kha-mati Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsassa dānaṃ so tuṇh’ assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Dinno saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāso. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi .

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Vị ấy xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Việc cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh đến Tỳ-kheo itthannàma, về những tội ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Sự biệt trú trừ thời gian thanh tịnh đã được tăng cho đến Tỳ-kheo Itthannāma, về những tội ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.

Tỳ-kheo tuyên bố thọ trì sự biệt trú:

Parivāsaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (đọc ba lần).
Tôi thọ trì sự biệt trú, tôi thọ trì pháp hành.

Tỳ-kheo đang khi hành biệt trú phải trình pháp với tăng hoặc nhóm hoặc một vị cũng được, lời trình như sau:

“Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi ratti-pariyantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So’ haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅ-gho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So’ haṃ parivasāmi vediyām’ ahaṃ bhante vediyatī’ ti maṃ saṅgho dhāretu”.

Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Tăng đã cho tôi biệt trú trừ thời gian thanh tịnh về những tội ấy. Tôi đang biệt trú. Bạch, tôi xin khai trình; xin Tăng nhận biết là tôi khai trình.

Tỳ-kheo đang biệt trú mà có hoàn cảnh không thể giữ pháp hành trong lúc đó, thì tạm thời xả, và đêm đó thọ trì lại. Lời xả như vầy:

Parivāsaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (đọc ba lần).
Tôi xả bỏ sự biệt trú, tôi xả bỏ pháp hành.

Ðó là cách thức tăng sự cho biệt trú.

Cách thức Suddhantamānattakamma:

Sau khi đã hành biệt trú đủ thời gian, Tỳ-kheo ấy qua giai đoạn hai là sống tự hối sáu đêm. Tỳ-kheo ấy phải tìm đến Tăng, và ngỏ lời xin Tăng cho hành mànatta như sau:

Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipa-riyantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So’ haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So’ haṃ bhante parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi. Dutiyampi ahaṃ bhante …pe… Tatiyampi ahaṃ bhante …pe… yācāmi”

Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho tôi biệt trú trừ thời gian thanh tịnh về những tội ấy. Bạch, tôi đã mãn biệt trú, tôi xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Lần thứ nhì … nt .. lần thứ ba … nt …

Tiếp đến, Tăng cho Tỳ-kheo ấy sáu đêm tự hối, bằng cách thông qua tứ bạch tuyên ngôn như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chāratttaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mā-nattaṃ dadeyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivut-thaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ deti. Yass’ āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ so tuṇh’ assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi eta-matthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Ðó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Việc cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt… nên nói ra. Lần thứ ba, tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Sáu đêm tự hối được Tăng cho đến Tỳ-kheo Itthannāma rồi, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.

Tỳ-kheo ấy thọ trì pháp mānatta rằng:

Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (nói ba lần).
Tôi xin thọ trì Itthannāma, tôi thọ trì pháp hành.

Trong thời gian hành mànatta, mỗi ngày vị Tỳ-kheo ấy phải khai trình với chư tăng không được bỏ qua, lời trình như sau:

“Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipari-yantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So’haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So’ haṃ parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattī-naṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So’ haṃ mānattaṃ carāmi. Vediyām’ ahaṃ bhante vedi-yatī’ ti maṃ saṅgho dhāretu”.

Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho tôi biệt trú trừ thời gian thanh tịnh về những tội ấy. Khi đã mãn biệt trú, tôi đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tôi đang hành pháp tự hối. Bạch, tôi xin khai trình, xin Tăng nhận biết là tôi khai trình.

Nếu trong thời gian hành mānatta Tỳ-kheo có duyên cớ không thể khai trình thì phải tạm thời xả bỏ pháp hành để không làm hỏng pháp hành mànatta, đêm gần hết sẽ thọ lại với các vị trong chùa. Lời xả pháp hành như sau:

Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi.
Tôi xin xả mànatta, tôi xả pháp hành.

Cách thức Suddhanta-abbhānakamma:

Khi đã đủ sáu đêm mānatta, nếu Tăng thấy rằng Tỳ-kheo ấy đã cải thiện thì nên phục vị Tỳ-kheo ấy. Ðương sự phải tìm đến Tăng có túc số trên 20 vị, đến đảnh lễ các vị cao hạ, và ngỏ lời xin Tăng phục vị như sau:

Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipariyantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyan-taṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipari-yante vematiko. So’ haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ sud-dhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So’ haṃ pari-vuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārat-taṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So’ haṃ bhan-te ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante …pe… So’ haṃ ciṇṇamānatto dutiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante …pe… So’ haṃ ciṇṇamānatto tatiyampi bhante saṅghaṃ ab-bhānaṃ yācāmi”.

Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, không nhớ rõ hạn lượng tội, không nhớ rõ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho tội biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Khi mãn biệt trú tôi đã xin tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội ấy. Bạch quí Ngài, nay tôi đã đủ thời tự hối, tôi xin tăng phục vị. Bạch quí ngài, … nt … lần thứ hai tôi xin Tăng phục vị. Bạch quí ngài … nt … lần thứ ba tôi xin Tăng phục vị.

Tiếp đến Tăng phải thông qua tứ bạch tuyên ngôn để phục vị Tỳ-kheo ấy, như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādiseso āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅ-ghaṃ abbhānaṃ yācati. yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ abbheyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpatti-pariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhapa-rivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamā-natto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Saṅgho itthannā-maṃ bhikkhuṃ abbheti. Yassā’yasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno abbhānaṃ so tuṇh’assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamat-thaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho …pe… so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi”.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, không nhớ rõ hạn lượng tội, không nhớ rõ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ trong hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Khi mãn biệt trú vị ấy đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. vị ấy đã đủ thời tự hối, nay xin Tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, không nhớ rõ hạn lượng tội, không nhớ rõ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Khi mãn biệt trú vị ấy đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối; Tăng đã cho Tỳ-kheo itthan-nāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Vị ấy đã đủ thời tự hối nay xin tăng phục vị; Tăng phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi … nt … nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng phục vị; Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app