Nội Dung Chính
NHỮNG TẦNG LỚP THIỀN QUÁN
Định là điều kiện đầu tiên
Định, hay tập trung, là một cây chìa khoá quan trọng trong thiền tập. Khi ta có định, nó có nghĩa là tâm ta đã được vững vàng, tự chủ và có mặt, và nhờ vậy mà tâm ta cũng trở nên mềm mỏng hơn. Ta có thể hướng dẫn nó hoặc uốn nắn nó theo ý. Ta có thể đặt tâm mình ở nơi này thì nó nằm yên ở nơi này, hoặc đặt ở nơi kia và nó cũng sẽ nằm yên ở nơi kia. Ta cũng có thể mở rộng nó ra hoặc thu đóng nó lại. Nói một cách khác, tâm ta lúc ấy cũng giống như một lăng kính của máy chụp hình xa, ta có thể điều khiển nó để nhìn gần hoặc xa tùy theo ý muốn. Và cũng có một vấn đề thú vị khởi lên, có liên quan đến những phương cách mà có thể giúp ta đạt đến một trạng thái tâm thức mềm dẽo này.
Những Cảm Nhận Giác Quan Biến Đổi
Và bây giờ, khi tâm ta được an tĩnh và tập trung, thường thường ta sẽ cảm nhận có một sự hỷ lạc và ánh sáng. Có năm trạng thái hỷ lạc. Từ những cảm giác lâng lâng nhẹ, thấy một màn ánh sáng mờ, cho đến những vầng sáng chói chan (như có ai dọi đèn pha vào mắt bạn), hoặc cảm thấy thân mình tan rã vào ánh sáng. Đôi khi trạng thái hoan hỷ ấy mãnh liệt đến mức có thể làm bạn cảm thấy đau đớn, khó chịu, cũng như một cảm giác sung sướng quá độ và kéo dài quá lâu. Nếu quý vị muốn tìm hiểu thêm về những trạng thái này, chúng ta cũng có những tài liệu trình bày rất rõ.
Những giác quan của bạn cũng bắt đầu biến đổi khi bạn đạt đến một trạng thái định này. Khứu giác của bạn trở nên tinh tế hơn. Tôi còn nhớ thời gian tu tập trong một tu viện, lúc ấy tâm tôi được rất an tĩnh, một buổi sáng tôi ôm bình bát xuống làng khất thực. Tôi chợt cảm thấy mình có giác quan bén nhạy như một con chó. Thường ngày khứu giác của tôi rất tệ, nhưng buổi sáng hôm ấy, trong mỗi một hay hai bước chân, tôi ngữi được một mùi mới khác nhau. Họ nấu món này ở phía bên đây, họ đang nấu món nọ ở phía bên kia. Có mùi khai ở chỗ này, có con vật gì chết ở nơi kia. Tôi hoàn toàn sống trong một thế giới tâm thức của thần kinh khứu giác.
Thị giác hoặc thính giác của bạn cũng biến đổi, bạn có thể lắng nghe được những âm thanh, tiếng động hết sức vi tế mà bạn chưa từng nghe bao giờ, hoặc nhìn thấy những vật rất nhỏ li ti. Tôi tin rằng những sự khai mở này của giác quan có thể đo lường được, vì vậy chúng ta có thể nghiên cứu và tìm hiểu thêm về chúng.
Một sự ngẫu nhiên là luận án tiến sĩ của tôi cho đại học Saybrook Institute, một phần là trình bày những kinh nghiệm mà hành giả có được trong thiền tập – chúng có thể là những cử động tự nhiên vô ý thức, hoặc cảm nhận về cơ thể biến đổi hay nhận thức thay đổi. Tôi ví dụ, nếu bạn bước đi trong khi mình đang ở trong một trạng thái định sâu, căn phòng này có thể cảm thấy như một chiếc tàu lắc lư hay là bốn bức tường như ngả nghiêng. Bạn có thể cảm thấy không biết mình nên đặt chân xuống nơi nào. Thế cho nên, những nhận thức giác quan của ta cũng bị thay đổi, nhiều khi là song song với cảm nhận biến đổi của cơ thể. Thường thường, người ta hay có những nhận xét như là: “Tôi có cảm giác như mình đang bay bổng”, “Tôi cảm thấy như một tảng đá”, “Thân tôi như hóa thành mặt trời và sức nóng”, “Thân tôi lạnh cóng như băng và tôi cảm thấy như tuyết giá.”
Con Đường của Định
Ở thời điểm này, có một vấn đề khởi lên là ta sẽ chọn để tiếp tục con đường thiền tập của mình như thế nào. Và đây cũng chính là một tuệ giác quan trọng của đức Phật. Một sự lựa chọn là ta cứ tiếp tục tập trung vào một đối tượng duy nhất, đó có thể là hơi thở của mình, ánh sáng của một ngọn nến, hay là một hình quán tưởng nào đó. Và nếu bạn tiếp tục tập trung vào một đối tượng duy nhất, bạn có thể đi sâu hơn vào trạng thái định an tĩnh, hay an chỉ định, và nơi đây cũng vậy, cũng có những tầng lớp thiền và trạng thái tâm thức khác nhau, khi ta trở thành là một với đối tượng mà mình quán tưởng.
Đây là những trạng thái rất là huyền diệu và hấp dẫn, chúng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc, nhẹ nhàng, hỷ lạc, của một bầu không gian và một trời tâm thức vô biên. Chúng đôi khi còn được gọi là cõi thiên trú, tức là những nơi cư ngụ của các vị trời. Nhưng trạng thái này cũng vẫn còn có một giới hạn, vì tuy rằng ta có một kinh nghiệm về mình như là một không gian hoặc một tâm thức vô biên, nhưng vẫn còn có một người, một cá nhân nào đó làm chủ thể. Vì vậy cho nên, tuy một vị trời có thể sống hằng tỷ năm – điều này cũng có nghĩa là những trạng thái tâm thức này hiện hữu trên một bình diện thời gian khác – nhưng cuối cùng rồi thì nó cũng sẽ chấm dứt. Và rồi ta trở lại với thế giới của sanh tử, sau khi hết thời hạn ở cõi trời ta lại trở về với thế giới của ngạ quỷ hay một nơi nào đó, tùy theo nghiệp quả hoặc sự ham muốn của mình dẫn dắt.
Tôi sẽ nói thêm về những tầng định sau.
Con Đường Của Quán
Và một con đường khác mà ta có thể chọn vào lúc này, giai đoạn đầu của sơ thiền, là ta không cần phải trở thành làm một với đối tượng thiền tập của mình. Đây là những con đường của thiền quán vipassana, zen và những pháp môn tương tự, mà tôi nghĩ có lẽ một vài phương pháp chú tâm của Gurdjeff cũng thuộc vào loại này. Theo phương pháp của thiền quán, ta chỉ cần quan sát và theo dõi sự phát sinh và mất đi của mọi hiện tượng, mà không tập trung hoặc trói buộc sự chú ý của mình vào bất cứ một đối tượng nào duy nhất hết.
Những Tầng Lớp của Tuệ Giác trong Thiền Quán
Khi tâm mình được tĩnh lặng và khi bạn thật sự chú ý đến tiến trình của thân và tâm, sẽ có một chuỗi sự kiện rất thú vị xảy ra. Chuỗi sự kiện ấy xảy ra không theo thứ tự của một đường thẳng, nhưng tôi nghĩ cách dễ nhất là ta hãy diễn tả chúng như một đường thẳng. Trước hết, ta sẽ có một tuệ giác về danh sắc, hay thân-tâm (body and mind). Khi bạn có chánh niệm và chú ý thật kỹ, bạn sẽ nhận thấy rằng trong mỗi giây phút, sẽ có một kinh nghiệm vật lý của nó (sắc) – ví dụ như ta cảm nhận hơi thở của mình – và tiếp theo là một ý nghĩ, ý tưởng hay là đặt tên cho nó (danh) – “Ồ, đó là hơi thở vào”. Bạn sẽ bắt đầu có thể tách rời, và phân biệt được giữa những sự kiện nơi tâm (danh) và những sự kiện nơi thân (sắc). Những sự kiện danh-sắc hay thân-tâm ấy, chúng liên hệ rất mật thiết với nhau, nhưng chúng vẫn có thể phân biệt được. Và từ đó, một thế giới dường như rất rắn đặc của những giác quan và của một cái tôi sẽ bắt đầu tan rã. Lúc ấy bạn sẽ thấy được rằng, cái tôi của mình đơn giản chỉ là những giây phút của một kinh nghiệm vật lý cùng với những phản ứng tâm thức đối với kinh nghiệm ấy. Và tất cả chỉ giản dị là có vậy thôi. Một sự khởi lên của một cặp đôi. Trong kinh đôi khi còn gọi đây là tuệ giác về phân biệt danh sắc.
Giai đoạn thứ hai của tuệ giác sẽ khai mở trong khoảng thời gian vài ngày, vài tuần hay vài tháng, khi sự chú ý của ta trở nên sâu sắc và tinh tế hơn. Đây là một tuệ giác về duyên sinh, khi bạn thấy được rõ rằng giây phút này khởi lên là tùy thuộc vào điều kiện của một giây phút khác. Bạn nghe một tiếng chim hót, kế tiếp là hình ảnh một con chim hiện lên trong đầu, rồi bạn nhớ đến một con chim bạn thấy hồi còn nhỏ, tiếp theo đó có thể bạn ý thức rằng mình đang ngồi thiền và ghi nhận được những kinh nghiệm ấy khởi lên, và rồi có thể là một cảm giác tự hào nổi lên – “Mình cũng ghi nhận được khá đó chứ” – hoặc là một ý nghĩ tự trách móc nào đó. Dầu gì đi nữa, ở giai đoạn này, bạn có thể nhận thấy và kinh nghiệm được rất rõ rằng mỗi một sự kiện là một điều kiện, nhân duyên cho sự kiện kế tiếp xảy ra. Luật điều kiện và nhân duyên, thống trị hết mọi trạng thái tâm thức, sẽ tự biểu hiện ra rất rõ rệt trong giai đoạn này.
Vào giai đoạn kế tiếp, những kinh nghiệm về các ảo tượng sẽ xuất hiện. Ta sẽ bàn thêm về chúng trong phần nói về các biến chứng phụ (side effects) của thiền quán. Những kinh nghiệm này sẽ mang lại cho ta một cảm nhận rằng, tất cả chỉ là một tiến trình tâm thức lưu chuyển từ giây phút này sang giây phút kế, vô thường, biến đổi liên tục, không thể nắm bắt được. Nó không có dính dáng gì đến cái tôi hoặc của tôi. Nó hoàn toàn theo những quy luật riêng của nó. Ở giai đoạn này, bạn chỉ cần ngồi yên và theo dõi sự việc tự chúng đến và đi, mà không hề can thiệp hay xen vào. Bạn an trú trong tâm ý mình. Khi tâm thức của ta trở nên sâu sắc hơn, những ảo tượng và cám dỗ này sẽ đến và rồi tự động qua đi.
Nhận Thức Về Sinh Diệt Có Thể Mang Lại Hạnh Phúc
Và khi sự chú ý của ta trở nên thâm sâu hơn nữa, ta sẽ kinh nghiệm được cái mà trong sách gọi là kinh nghiệm về sinh diệt. Giai đoạn này, ta có cảm tưởng như thân-tâm mình trở nên một thác nước, hay một cơn mưa, mà ta không còn có thể đặt tên cho những kinh nghiệm của mình nữa. Bạn kinh nghiệm thân và tâm mình như những chấm nhỏ của cảm giác, tư tưởng và ký ức, chúng hoàn toàn rời rạc với nhau, tất cả khởi lên rồi mất đi như những hạt mưa rơi tan biến trên một vũng nước. Cảm nhận về một cái gì kiên cố và rắn chắc của ta hoàn toàn tan rã.
Ở thời điểm này, sẽ có cái mà Daniel Goleman, trong quyển The Varieties of Meditative Experience, gọi là một niết-bàn-giả-tạo khởi lên. Trong một khóa tu ba-tháng thì có độ chừng 20 thiền sinh trong số 100 thiền sinh sẽ có một kinh nghiệm này. Tâm ta rực sáng. Nơi nào ta nhìn cũng sáng chói. Ta tràn ngập ánh sáng và cảm thấy một niềm hạnh phúc, sáng tỏ và vui sướng mãnh liệt. Nói một cách khác, tất cả những gì huyền diệu mà bạn nghe diễn tả về con đường tâm linh đều xảy ra trong trạng thái niết-bàn-giả-tạo này!
Và giai đoạn này cũng có một vấn đề. Thiền sinh dễ ưa thích và bị kẹt vào đấy. Họ nói, “Tôi đã đạt được rồi và tôi rất là thích!” Bạn ôm giữ những trạng thái này như chúng thật sự là của mình, mặc dù đó hoàn toàn là một tuệ giác sai lầm. Vì vậy mà ta gọi nó là một niết-bàn-giả-tạo là vậy. Trong thời điểm này, ta cần phải mạnh dạn và có một cái nhìn thật sâu sắc để nhận diện được nó.
Trong giai đoạn này sẽ có một tuệ giác phát khởi, mà nó cũng là một trong những tuệ giác quan trọng và chủ yếu nhất của đạo Phật. Nó xảy ra một cách rất tự nhiên, cũng giống như ta đang ngồi trong một căn phòng tối và đột nhiên có một người nào đó bật đèn lên vậy. Ta nhận thức được rằng, khi ta ở trong trạng thái hạnh phúc này lâu đủ rồi, là sẽ không có một trạng thái tâm thức nào, và cũng không có một quyền lực hoặc một kiến thức nào, thật sự có khả năng giúp cho sự giải thoát của mình. Trên con đường tu tập, quyền lực và kiến thức rất là rẻ rúng, chúng chẳng có một giá trị nào hết. Chúng hoàn toàn khác biệt với sự giải thoát. Vì vậy, chỉ khi nào bạn thật sự kinh nghiệm và nhận thức trực tiếp rằng, ta phải buông bỏ hết tất cả mọi việc, thì mới có thể nói chuyện vượt thoát sanh tử và bước đi thong dong được. Và đây là một khám phá rất lớn và chủ yếu.
Nhận Thức Về Sinh Diệt Có Thể Mang Lại Một Sự Sợ Hãi
Tiếp theo tuệ giác ấy là một nhận thức về sự tiếp nối liên tục của tiến trình sinh-tử, nó cũng tương tự giống như những bản đồ về cái chết của Stanislav Grof vậy. Đến giai đoạn này, nhờ bạn đã có khả năng buông bỏ hết những dính mắc về hạnh phúc, quyền lực, chói sáng, những vẽ đẹp mà đã đến với bạn, chánh niệm của bạn cũng được trở nên tinh tế hơn, và bạn có thể nhìn thấy sâu sắc ngay vào cái tiến trình của chính nó. Lúc ấy, thay vì nhìn thấy mọi vật sinh lên rồi diệt đi, bạn bắt đầu nhận thức rằng chỉ có mỗi một sự tan rã mà thôi. Bất cứ nơi nào bạn nhìn chỉ có sự tan rã. Nghe một tiếng động, bạn kinh nghiệm sự chấm dứt của nó. Có một tư tưởng, bạn kinh nghiệm sự chấm dứt của nó. Bạn có một cảm xúc, nó chấm dứt. Tâm thức bạn lúc này cũng giống như một vùng cát sa lầy vậy, tất cả biến mất. Ở trạng thái tâm thức này tất cả mọi hiện tượng đều tan hủy.
Và kinh nghiệm về sự tan rã này sẽ làm phát sinh trong ta một nỗi sợ, đôi khi có thể là một sự kinh hãi lớn. Vì lúc này, bạn ý thức được rằng không có một nơi nào, một căn cứ nào, mà con người có thể đứng vững được. Không có một căn cứ nào hết, và đó là sự thật tuyệt đối. Tất cả những kinh nghiệm của ta đều là sản phẩm của tâm thức mình, và không có một trạng thái tâm thức nào lại có một bản thể thực chất hết. Ý niệm đặt cái tôi của mình trên bất cứ một nền tảng nào đều hoàn toàn sai lầm.
Và từ trạng thái sợ hãi đó, thiền sinh có thể sẽ bước sang những trạng thái buồn khổ, ghê sợ và đè nén. Bạn có cảm tưởng như thế giới này đang áp bức bạn, bạn có kinh nghiệm như thân mình đang hủy hoại. Tôi ví dụ, bạn có thể nhìn xuống thân và thấy như có những mảnh thịt của mình rớt ra còn đeo lủng lẳng trên người, bạn có thể thấy mình đã chết hằng trăm ngàn lần qua trăm ngàn lối khác nhau, hay là bạn cảm thấy một sức nặng đè nát mình, như là ta đang đội cả trái đất này trên đầu vậy. Những kinh nghiệm về các ảo tượng khác cũng khởi lên, đủ hết mọi hình ảnh về các nguyên mẫu (archetype). Bạn có thể chứng kiến những cuộc chiến tranh đã xảy ra hằng ngàn năm trước hiện ra ngay trước mắt bạn. Và như tôi đã trình bày, có rất nhiều tài liệu nói về những vấn đề này, rất chi tiết, nếu bạn muốn biết.
Buông Xả và Chấp Nhận là Hạnh Phúc Chân Thật
Rồi sẽ có một trạng thái khác phát sinh lên, một tuệ giác về “buông xả hết những mong cầu giải thoát”. Thật ra đây là giai đoạn mà cái tôi của mình bị bóc gở ra xuống đến cùng tận bình diện tế bào của nó. Cũng vì tiến trình này mà Jack Engler, trong luận án của ông tại đại học Harvard, đã diễn tả thiền quán (insight meditation) cũng giống như là một tiến trình vượt qua những nỗi thống khổ của mình (grieving proccess) vậy. Trước hết, bạn thấy rằng mình cần phải buông bỏ hết mọi việc bên ngoài – rằng ta không thể nào nắm giữ được vợ hay chồng mình, hay xe hơi, nhà cửa, chức vị… chúng là một phần của cát bụi. Và rồi, sâu sắc hơn nữa, bạn cũng thấy rằng mình không thể nào bám víu vào bất cứ một trạng thái tâm thức nào bên trong, hoặc một cảm nhận nào về cái tôi của mình, bởi cũng thế, không có gì là có một thực chất hết.
Như tôi đã trình bày, có một tiến trình sinh-tử mà trong giai đoạn này bạn có cảm tưởng như mình phải chết cả trăm ngàn lần. Sẽ đến một lúc mà bạn chỉ muốn được giải thoát thôi. Như là bạn muốn nói lên rằng, “Thôi, như vậy là quá đủ rồi!”
Đến chừng ấy, nếu bạn không đối xử nó bằng một sự chống đối, nhưng bằng một chánh niệm sâu sắc và một thái độ chấp nhận, bạn sẽ tiếp xúc được với một trạng thái thanh thản rất sâu sắc, mà các nhà thần học Thiên chúa giáo gọi là sự vô-tình-thần-thánh (divine apathy). Sự vô tình ấy không phải là một thái độ dững dưng hay nhàm chán, mà nó là một trạng thái quân bình trọn vẹn trong tâm, một sự cân bằng rất hoàn hảo. Trong trạng thái này, bạn có thể ngồi yên hằng giờ mà không cử động hay nhúc nhích, và không có một sự khó chịu nào trong thân. Nó thật vô cùng an lạc.
Vào lúc này, tâm của ta trở nên vô cùng tươi mới. Tôi còn nhớ, khi ngồi thiền trong một tu viện ở gần một ngôi làng nhỏ. Người dân ở đây thường hay sử dụng những chiếc xe lôi máy ba bánh, mà mỗi lần tiếng máy nổ kêu “phụt-phụt-phụt-phụt.” Một chiếc xe lôi máy chạy ngang tu viện trong khi tôi ngồi thiền và đang ở trong trạng thái rất tĩnh lặng và an lạc này. Tiếng máy nổ “phụt-phụt-phụt-phụt” như mọi ngày. Nhưng tôi nghe mỗi tiếng “phụt” là một cái gì rất mới và đầy kinh ngạc! Trong tôi không có một sự mong đợi hay kỳ vọng nào hết. Chỉ vì tiếng máy nổ đều “phụt-phụt”, đâu có nghĩa là tiếng “phụt” kế tiếp sẽ xảy ra đâu! Trong tôi không hề có việc mang lịch sử, quá khứ của một giây phút này sang tiếp giây phút kế. Trong trạng thái tâm thức này, chỉ có sự phát khởi lên của một kinh nghiệm trong một giây phút, và rồi sự chấm dứt của nó. Có những lúc bạn cảm nhận được sự sanh diệt của mọi hiện tượng trong cuộc sống này như một giấc mơ, nhưng dù vậy bạn vẫn giữ được sự thanh thản và tỉnh táo của mình.
Chỉ Là Một Tấm Bản Đồ
Thường thì trong một khóa tu ba-tháng, với một trăm thiền sinh, thì có độ chừng năm hay sáu người sẽ đạt đến giai đoạn này, nếu họ tinh tấn. Đây là một trạng thái tâm thức rất siêu việt.
Quý vị cũng nên nhớ rằng, tấm bản đồ tâm thức mà tôi trình bày ở đây chỉ là một trong số những bản đồ khác. Mười bức tranh chăn trâu của thiền tông cũng trình bày hành trình tâm thức này qua một lối khác, nhưng cũng rất tương tợ. Còn truyền thống đại-viên-mãn (dzogchen) và đại-thủ-ấn (mahamudra) của Phật giáo Tây tạng, họ bắt đầu trước bằng một trạng thái tâm thức tĩnh lặng và bao la nhất. Thay vì bắt hành giả thực tập để đi lần lần vào những trạng thái tâm thức vi tế hơn, thì họ lại bắt đầu với những trạng thái cao tột này, và rồi từ đó nhìn lại những kinh nghiệm bên dưới – như là: danh sắc, nhân duyên, sanh tử, đau đớn – từ một phối cảnh rộng lớn ấy. Nói tóm lại, còn có những tấm bản đồ tâm thức khác nữa, nhưng tôi không thể trình bày ở đây.