CON ĐƯỜNG CỦA THIỀN ĐỊNH

Bây giờ chúng ta hãy xem đến con đường của thiền định (samadhi), con đường dẫn ta đến những cảnh giới của định (jhanas).

Những Đề Mục của Thiền Định

Trong Thanh Tịnh Đạo, Visuddhimagga, có nói về bốn mươi đề mục thiền định khác nhau – như là hơi thở, yếu tố đất, nước, không khí, Phật, ngọn nến, cái chết, v.v… Khi hành giả chú tâm vào một trong những đề mục ấy, tâm của họ và đối tượng ấy có thể sẽ trở thành làm một. Chuyện ấy không phải dễ, nhưng cũng không phải là không thể làm được nếu ta hết lòng thực tập. Trong vòng một hay hai tuần thực tập miên mật không ngừng nghỉ, bạn sẽ bắt đầu có thể hiểu được thế nào là một định tâm. Sự định tâm không chỉ dành riêng cho những đạo sĩ du-già của Ấn độ mà thôi.

Và khi bạn đã đạt được sơ định, hay cận hành định, mà tôi đã trình bày trước đây, từ đó bạn có thể bước thêm vào tám cảnh giới định (jhanas) kế tiếp, nếu bạn chọn tiếp tục tập trung vào đề mục thiền định của mình. Tám tầng thiền ấy cũng còn được gọi là tám trạng thái định trên đề mục ấy.

Tầng định thứ nhất phát sinh khi ta có thể duy trì và giữ yên tư tưởng của mình trên đề mục một cách tự nhiên. Ví dụ, bạn thực tập thiền định về đề mục tình thương bằng cách niệm thầm “Cầu mong cho mọi loài được hạnh phúc”, với một cảm giác thương yêu khởi lên trong tim mình. Đến một lúc nào đó ý tưởng ấy sẽ tự nó bắt đầu khởi lên một cách tự nhiên. Ý nghĩ và sự chú tâm của bạn đã được hướng về (tầm) và giữ yên (tứ) trên đối tượng; và rồi chính nó tiếp nối nhau tự nhiên như một vòng tròn, và khi ấy bạn sẽ cảm thấy rất hỷ lạc. Bất cứ khi nào tâm và thân của bạn được hợp nhất với nhau, bạn sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Và cũng từ đó, nó sẽ phát sinh một trạng thái an tĩnh và tập trung rất sâu sắc.

Dục An Tắc An

Khi tâm ta bắt đầu an định, nó cũng sẽ trở nên mềm dẽo và rất dễ uốn nắn. Trong lúc này sẽ có những hiện tượng rất thú vị xảy đến cho ta. Mặc dù chỉ là ở mức độ của sơ định (access concentration), nhưng tâm ta đã có thể bắt đầu tự nó tập trung, ta sẽ cảm thấy những cơn sóng của hỷ lạc tiếp nối nhau, hoặc hạnh phúc phát khởi lên. Thêm vào nữa, khi bạn ngồi thiền định tâm, tập trung vào một câu niệm hoặc một hình ảnh, bạn có thể gọi lên bất cứ một trạng thái kinh nghiệm nào mà bạn muốn. Tôi ví dụ, bạn có thể nói rằng, “Xin cho tôi có hỷ lạc” và thân bạn sẽ được ngập tràn với một cảm giác hỷ lạc. Hoặc bạn nói, “Xin cho tôi có hạnh phúc” và bạn sẽ mỉm cười với một niềm vui phơi phới. Hoặc bạn nói, “Xin cho tôi được an tĩnh” thì lập tức trạng thái tĩnh lặng ấy sẽ được biểu hiện ngay.

Và trên con đường thực tập thiền quán (insight path) cũng vậy, ta cũng có những chứng nghiệm tương tự như thế. Một người có một mức độ sát-na định sâu sắc (moment-to-moment concentration), họ có thể ngồi thiền và tự nói rằng “Xin cho trạng thái tan rã phát khởi.” Và lập tức, người ấy sẽ thấy mình ở một nơi, một trạng thái tâm thức, mà tất cả mọi việc đều đang phân tán. Những quy trình này rất là đặc biệt và thú vị, cho những ai muốn tìm hiểu và nghiên cứu thêm tâm thức của ta thành lập và phát khởi lên như thế nào.

Và để tôi cộng thêm một chút lắt léo này nữa, quý vị sẽ thấy nó còn lạ đến chừng nào. Trong một trường hợp, tôi có một người bạn, anh ta tinh tấn thực tập theo con đường của thiền định, tuy vẫn chưa chứng nghiệm được sơ định. Anh nghe nói về khả năng làm phát khởi lên những trạng thái thân tâm này của thiền định, và muốn thử nghiệm. Khi ngồi thiền và tâm tập trung, anh khởi tác ý muốn cho hỷ lạc khởi lên, nhưng vì không rành về tiếng Sanskrit hay Pali, nên thay vì dùng chữ hỷ lạc anh lại dùng chữ của hạnh phúc. Hỷ lạc không sinh lên. Hạnh phúc sinh lên, mặc dù đó không phải là ý chính của anh! Nó giống như là đã có sẵn một đường lối nguyên mẫu (archetypal way) nào đó, kết liền tâm thức của ta với lại ngôn ngữ, và chúng rất ăn khớp với nhau. Khi bạn gọi tên nó, trong một trạng thái thích ứng, tâm thức ấy sẽ lập tức biểu hiện lên ngay. Và câu chuyện này có thể gợi cho quý vị một số câu hỏi trong vấn đề tìm hiểu tâm thức.

Những Cảnh Giới Định

Bây giờ, khi bạn có khả năng làm cho những yếu tố này phát khởi lên riêng rẽ hoặc chung với nhau, khi định lực đã bắt đầu thâm sâu, lúc ấy bạn có thể nói, “Xin cho sơ định phát sinh”. Và lập tức bạn sẽ thấy mình đang ở trong một trạng thái mới khác. Trong trạng thái của sơ định, khi nó còn yếu, bạn sẽ vẫn còn nghe và cảm nhận được thế giới chung quanh mình. Khi nó trở nên thâm sâu, tất cả mọi việc chung quanh đều biến mất, và bạn hoàn toàn thâm nhập vào với đối tượng thiền định của mình. Và tuy ở giai đoạn đầu, nhưng bạn cũng có thể nhận thấy rõ rằng mình đang ở trong một trạng thái rất đặc biệt. Trong trạng thái này, mọi muộn phiền lo âu đều tan biến hết, và bạn kinh nghiệm được sự tự động lặp lại của đối tượng. Đó có thể là một cảm nhận hạnh phúc, nếu đề mục của bạn là tâm từ, hoặc là một đức tính tốt nào của đức Phật, hay một yếu tố của vật chất – dù đó là gì đi chăng nữa, nó sẽ tự động lặp lại. Bạn chỉ cần thỉnh thoảng đẩy nhẹ một chút, và rồi chiếc bánh xe sẽ tự động quay tiếp mình nó. Trong suốt thời gian ấy, bạn an trú trong một trạng thái rất vững chãi và tĩnh lặng, tràn ngập trong hỷ lạc và hạnh phúc.

Và khi định lực trở nên thâm sâu và tinh tế hơn, bạn có thể nói, “Xin cho cảnh giới định thứ hai phát sinh”. Lúc này tâm-hướng-về (tầm) và tâm-giữ-yên (tứ) trên đối tượng không còn nữa, và ngay cả chính đối tượng cũng biến mất. Tất cả chỉ còn là hỷ lạc, hạnh phúc và tĩnh lặng. Nhưng rồi bạn nhận thấy rằng, những cảm giác hỷ lạc ấy cũng chỉ là những cảm giác thô tế ở thân mà thôi, và bạn quyết chí làm cho tâm của mình trở nên sâu sắc và tinh tế hơn nữa. Và bạn lại tiếp tục làm cho mình trở nên tĩnh lặng hơn và tập trung vào đề mục hơn nữa, rồi bạn nói, “Xin cho cảnh giới định thứ ba phát sinh.” Bạn lập tức cảm nhận được thân mình lắng yên xuống và rồi một cảm giác hạnh phúc và an tĩnh vô cùng sâu sắc, mà ta không thể nào diễn tả được, khởi lên và tràn ngập thân tâm bạn. Và rồi từ đó bạn có thể bước sang cảnh giới thiền định thứ tư, buông bỏ cả cảm giác hạnh phúc này vì nó vẫn còn thô tế. Ở nơi này bạn hoàn toàn an trú trong một niềm an lạc kỳ diệu.

Và từ cảnh giới định thứ tư, bạn có thể bước vào cảnh giới vô sắc nếu bạn có một định lực thật mãnh liệt. Và thay vì ở yên trong trạng thái an tĩnh này mãi, bạn có thể cương quyết thêm để đi vào cảnh giới định thứ năm, một không gian vô biên. Tất cả mọi cảm nhận về thân và sắc đều tan biến hoàn toàn, tâm thức của bạn trở thành làm một với không gian bao la. Và với sự tiếp tục dụng công thanh lọc tâm ý, bạn sẽ kinh nghiệm được một tâm thức vô biên, vô cùng tận. Thay vì là không gian, bạn cảm nhận được ngay chính cái tâm thức làm thành không gian ấy. Bạn thực sự cảm nhận được sự biểu hiện của nó qua cái đặc tính của bây giờ và ở đây. Trong những trạng thái không này, sẽ không còn có tri-giác và cũng không có không-tri-giác.

Những cảnh giới thiền định mà tôi vừa diễn tả đòi hỏi rất nhiều thời gian và công phu, chứ không phải chỉ đơn giản như tôi trình bày ở đây. Và quý vị cũng nên nhớ là có cả trăm đề mục thiền định khác nhau. Và mỗi đề mục sẽ có những ảnh hưởng, “mùi vị” về các tầng định hơi khác nhau.

Một Số Vấn Đề Trong Thiền Định

Con đường của thiền định có khơi lên một số vấn đề khá nan giải trong lãnh vực nghiên cứu về tâm thức. Vấn đề thứ nhất là những phương cách dụng công này hoạt động như thế nào? Vấn đề thứ hai là tính chất cá biệt của mỗi trạng thái tâm thức, ở đây tôi muốn nhắc lại với quý vị rằng những truyền thống Phật giáo khác sẽ nhấn mạnh về những trạng thái khác nhau. Vấn đề thứ ba là những sự thực tập này có lợi ích gì cho vấn đề giác ngộ? Và vấn đề thứ tư là con đường thiền định là cánh cổng dẫn ta vào tiếp xúc với những năng lực siêu phàm, huyền bí, cho những ai muốn tìm hiểu, mà theo tôi thì chúng hoàn toàn không cần thiết. Trong quyển Thanh Tịnh Đạo, Visudhimagga, có một chương nói rất rõ về những phương cách thực hành thiền định và làm sao để ta dễ dàng chuyển từ một tâm thức này sang tâm thức mới. Và trong sách cũng liệt kê ra những năng lực mà hành giả có thể đạt được như là đọc tư tưởng của người khác, hoặc hóa ra nhiều thân khác nhau…

Mà những quyền lực này có thật không?

Munindra, một trong những vị thầy của tôi, có đào luyện cho một số đệ tử phụ nữ của ông vài năm trước đây. Họ là những thiền giả rất ưu việt, đã thành công trên cả hai lãnh vực thiền quán (vipassana path) và thiền định (jhanas path). Ngài Munindra nói với chúng tôi rằng, họ đã thành đạt được hết những cảnh giới định (jhanas) bằng cách thực tập với nhiều đề mục khác nhau. Họ có thể hóa thân ra để gặp ngài Munindra để trình pháp. Tôi thì tự mình chưa được chứng kiến những việc này nên tôi không biết là nó có thật hay không. Nhưng tôi biết điều này, có nhiều lần tôi đọc trong sách rằng khi ta niệm cái này thì cái kia sẽ xảy ra – và đúng như vậy, nó đã xảy ra. Vì vậy mà tôi thấy vấn đề này rất khó đoán, tôi không biết được.

Nói chung thì trong kinh có trình bày rất rõ những phương pháp cho những ai muốn đạt tới những quyền năng này, và cho quý vị nào muốn hoang phí thời giờ của mình.

Phương Pháp Quán Tưởng của Tây Tạng là Thiền Định

Và bạn cũng có thể đạt đến những cảnh giới định này qua phương pháp quán tưởng (visualization). Ví dụ như trong Phật giáo Tây tạng, hành giả có thể quán tưởng về một vị phật hay bồ tát và nó sẽ giúp khởi lên cả một trạng thái tâm thức mới. Những cảnh giới định cũng có thể có liên hệ đến những thế giới của nguyên mẫu (archetypal realms) trong tâm thức cộng đồng. Tôi có một người bạn, anh ta cũng là một tăng sĩ Phật giáo. Có lần anh đi qua Ấn độ và viếng thăm một tu viện thuộc đạo Sikh, nơi đây họ tu tập sử dụng những âm thanh nội tại để mang hành giả vào những cảnh giới cao của thiền tập. Vị thầy ở đó nói với người bạn tôi, “Anh biết không chúng tôi không tin vào giới tu sĩ. Tất cả mọi người ai cũng nên phải làm việc để kiếm ăn.” Người bạn của tôi đáp lại rằng ngay ở Ấn độ cũng vẫn có một truyền thống tu sĩ xuất gia rất mạnh. Và hai bên cũng lý luận qua lại một hồi. Sau đó người bạn tôi cũng xin được học phương pháp tu tập của đạo Sikh. Vị thầy trao cho anh một câu chú và dạy cho anh cách thực tập lắng nghe âm thanh nội tại trong mình. Là một thiền sinh rất tinh tấn, anh ta đi về ngôi chòi nhỏ của mình và thực tập theo lời hướng dẫn. Sau ba ngày thực tập, anh thấy mình có mặt trong một cảnh trời đầy ánh sáng. Và lẽ dĩ nhiên vị thầy của anh cũng có mặt ở nơi này. Trong cảnh trời đầy ánh sáng ấy, vị thầy bảo anh, “Tôi đã nói với anh rồi phải không, ta đâu cần phải xuất gia?” Và người bạn tôi đáp, “Thì đúng đó, nhưng là một tu sĩ vẫn có thể làm được vậy!” Và họ tiếp tục tranh cãi ngay cả trong cảnh giới ấy. Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật, và tôi còn biết nhiều câu chuyện khác cũng tương tự như vậy.

Truyền thống Tây tạng thì rất là phong phú và giàu có về phương diện này. Họ có nhiều dòng dõi các vị Phật khác nhau, có rất nhiều loại bồ tát khác nhau, mỗi vị tượng trưng cho những đặc tính tâm linh khác nhau, những vật châu báu, những màu sắc khác nhau, và những trạng thái tâm thức khác nhau mà ta có thể làm chúng phát khởi lên được bằng năng lực của tụng niệm và tập trung. Dường như, chúng là những kiểu mẫu cố hữu sẵn có của một tâm thức vũ trụ.

-ooOoo-

Một Số Câu Hỏi và Suy Tư

Và bây giờ tôi có một số câu hỏi muốn được nêu lên với quý vị. Lẽ dĩ nhiên, một vấn đề quan trọng trong việc nghiên cứu thiền tập, là làm sao để phân biệt được rõ ràng giữa những trạng thái nhất thời và những đặc tính lâu dài của thiền tập. Một bên thì ta muốn được hiểu rõ hơn về những trạng thái khác nhau của tâm thức, bằng cách tìm hiểu xem ta đạt đến đó bằng cách nào và chúng gồm có những kinh nghiệm gì. Một đàng khác, và có lẽ quan trọng hơn hết, ta nên đặt câu hỏi là những trạng thái hoặc kinh nghiệm ấy có mang lại cho ta một lợi ích nào lâu dài không, và như thế nào? Chúng có ảnh hưởng gì đến mối liên hệ giữa ta với người chung quanh, và với những sự sống khác?

Vấn Đề Nội Kết

Như tôi đã trình bày, ta khám phá và học hỏi được rất nhiều trong truyền thống thiền tập, nhưng, ít nhất là trong những tu viện ở Á châu, người ta ít chịu chú ý đến những vấn đề có liên quan đến cá nhân hoặc những khó khăn về tâm lý. Sau khi viếng thăm Hoa kỳ, đại lão thiền sư Mahasi Sayadaw nói, “Ở xứ này dường như có một loại khổ đau gì đó mà tôi cũng không rõ và quen thuộc lắm… Họ gọi nó là khổ đau tâm lý, hay là gì gì đó!”

Vì vậy mà khi người ta đi tham dự những khóa tu thiền, thường thường thì họ không bắt đầu thực tập thiền quán ngay tức thì. Họ phải đối diện với những vấn đề như là mối liên hệ giữa vợ chồng, cha mẹ, những khó khăn vì bị lạm dụng khi còn nhỏ hoặc nghiện rượu… Nhưng thật ra thì tất cả cũng đều là một phần của sự tu tập. Chúng ta cần ghi nhận và tôn trọng chúng, thấy rõ rằng tất cả đều có những liên hệ mật thiết với nhau.

Một vấn đề thử thách nữa là, ở Tây phương chúng ta rất chú trọng về chủ nghĩa cá nhân hơn là những xứ Á châu, như là Ấn độ hay Nhật bản. Ở những quốc gia này, người ta hoàn tất sứ mệnh hoặc dhrama của mình bằng cách đi theo con đường mà cha mẹ mình đã hoạch sẵn. Cha mẹ ta sinh sống như thế nào, con cháu thường sống theo y như vậy. Còn ở Tây phương, chúng ta hoàn tất sứ mệnh của mình bằng cách sống theo một đường lối cá nhân của riêng ta. Và trong thiền tập nó cũng biểu hiện lên sự khác biệt ấy. Đường lối của Đông phương có khác với đường lối của Tây phương. Vì vậy, là người Tây phương, chúng ta cũng nên nhìn lại và khám phá những gì có thể giúp ích cho mình, dựa trên thời điểm và văn hóa của chính chúng ta.

Phần lớn những người Tây phương hay sử dụng sự tu tập tâm linh để trốn tránh những vấn đề cá nhân. Tôi gọi những người ấy là “thợ nhảy.” Tôi biết điều ấy vì chính tôi cũng đã từng như vậy. Ta nhảy lên một tầng cao hơn và hy vọng rằng mình sẽ có chút giác ngộ chỗ này, vài kinh nghiệm huyền bí chỗ kia, và rồi chúng sẽ giúp ta giải quyết hết mọi đau đớn và khó khăn của mình trong đời sống hằng ngày. Nó có giải quyết đó – cho đến khi ta lập gia đình, hay đi xin việc làm, hoặc trở về nhà thăm cha mẹ… Và rồi tất cả vẫn hoàn như xưa…

Thiền Tập Phải Giúp Chuyển Hóa Khổ Đau

Phân nửa những người bước vào con đường thiền tập đều không thể tiến xa được. Họ phải đương đầu với quá nhiều những muộn phiền, quá nhiều những vấn đề còn dở dang, quá nhiều sợ hãi. Một câu hỏi tôi nêu lên với những vị nào thích con đường thiền tập, là làm sao tìm được những phương cách nào có thể áp dụng thiền tập giúp cho những hạng người này. Và tôi tin là chuyện ấy hoàn toàn có thể được.

Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Ví dụ đầu tiên có liên quan đến một cô thiền sinh trẻ, cô ta là một hành giả rất giỏi. Cô đã trải qua hầu hết những chứng nghiệm mà tôi đã trình bày với quý vị. Sau năm năm, cô có liên hệ tình cảm với một người đàn ông và cuộc sống của cô bắt đầu thay đổi. Vào thời gian đó, cô có đi tham dự một khóa tu khác – lần này mọi kinh nghiệm thiền tập đều trở nên rất khó khăn – cô không còn cảm thấy hỷ lạc như trước, cô chỉ có thể cố gắng để có mặt với chính mình mà thôi. Trong lúc kinh nghiệm tiến trình sinh-tử, những ký ức của thời thơ ấu đột nhiên lũ lượt trở về với cô ta. Cô chợt nhớ lại thuở nhỏ mình đã sống trong một gia đình nghiện rượu và cô đã bị lạm dụng như thế nào, mà những chuyện này cô hoàn toàn không hay biết. Và cô phải mất một thời gian bốn, năm năm mới có thể chữa lành được vết thương này. Có lúc cô buồn chán và thất vọng đến nỗi, trong một thời gian dài, cô không còn muốn ra khỏi phòng của mình. Bây giờ thì cô lại là một trong những người học trò giỏi và tiến bộ nhất mà tôi đã từng có dịp đào luyện. Tôi thấy rằng sự đào luyện ấy đã giúp cô sẵn sàng đối diện với những khổ đau của chính mình, và nó còn khó khăn và lớn lao hơn gấp trăm ngàn lần những nỗi khổ đau chung chung khác mà cô đã tiếp xúc trước đó.

Tôi cũng biết có những vị tinh thông một phương pháp vipassana về quán toàn thân (body scan), họ thực tập cho đến khi ta có thể làm hoà tan hết tất cả những tế bào, và khiến cho thân ta cảm thấy thanh nhẹ và trống không. Họ có thể diễn tả một cách rất chi tiết và tinh vi hết những cảm giác vật lý hoặc các năng lượng trong thân, nhưng họ lại không thể biết được là họ đang có những cảm xúc nào. Họ phát huy được một tâm thức về thân rất bén nhạy và sâu sắc, nhưng phần tình cảm của họ thì hoàn toàn không đụng chạm đến. Và phần mà ta không đụng chạm đến ấy lại thường là những sầu khổ, sân hận chất chứa bên trong. Vì vậy mà những kinh nghiệm ngăn chia, biệt lập, bởi đời sống gia đình, cũng được biểu hiện rõ rệt trong con đường thực tập tâm linh của ta. Và đây là một điểm rất quan trọng mà tôi muốn chia sẻ đến tất cả quý vị. Nếu trong những vấn đề tôi đã nêu lên, tôi phải tập trung và đưa ra chỉ một vấn đề mà thôi, thì đó là câu hỏi này: Tâm thức ta tạo nên những ngăn chia trong tâm bằng cách nào – và làm sao để ta có thể phá vỡ hoặc cởi mở ra được sự ngăn chia đó?

Chuyển Hướng Từ Nam Tính Sang Nữ Tính.

Vì vậy tôi nghĩ, vấn đề là chúng ta cần phải học hỏi và tìm hiểu thêm những gì có thể áp dụng được cho Tây phương, làm sao ta có thể mang những truyền thống của Đông phương hoà nhập vào xả hội này.

Hầu hết những con đường tâm linh ở Á đông phần lớn đều được phát triển và truyền dạy trong một nền văn hóa của những chiến sĩ, đầy nam tính (masculine). Một đặc điểm của sự tu tập ấy là ta cố hết sức mình để đạt cho bằng được một trạng thái siêu việt nào đó. Tôi cũng đã được dạy và thực tập như thế. Nhưng khi chúng ta thực tập theo chiều hướng đó, ta lại thường bỏ lơ qua những khó khăn riêng tư, những vấn đề cá nhân còn dang dở, như tôi đã trình bày. Bây giờ thì tôi khám phá ra rằng, tôi cần phải thay đổi ngôn ngữ và cách dạy của mình sang một phương thức có nhiều nữ tính hơn (feminine), và có nhiều liên hệ mật thiết hơn. Đa số chúng ta cần phải bắt đầu sự tu tập của mình trên một nền tảng tự chấp nhận thật vững chắc. Thiếu tình thương, không biết tự chấp nhận và tha thứ, người ta sẽ rời bỏ thân mình. Và những chứng nghiệm mà họ đạt được sẽ không thể nào đem hoà nhập vào với cuộc sống hằng ngày được. Vì vậy, vấn đề của chúng ta là làm sao mình có thể chuyển hướng đời sống tâm linh của mình, trong lãnh vực nghiên cứu hay trong sự thực tập cá nhân, từ một phương thức mang nam tính tiêu cực (negatine masculine) sang một phương thức nữ tính và nam tính tích cực hơn (positive feminine và positive masculine).

Con đường tu tập của ta xảy ra theo một vòng xoắn ốc. Nó không phải là một quy trình đường thẳng, nó bắt ta phải cứ tiếp tục quay trở lại đối diện với cái tôi sâu sắc của mình. Cho dù ta có tan biến vào ánh sáng, cái tôi của ta vẫn cứ trở lại cho ta thấy, cho ta xúc chạm và học hỏi từ đó. Thế cho nên, chúng ta thường có khuynh hướng nghiên cứu và học hỏi cuộc sống này như là nó diễn biến trên một đường thẳng, điều ấy rất sai lầm. Và tôi nghĩ, những nghiên cứu của ta bị thất bại là cũng bởi vì vậy.

Buông Bỏ, Buông Bỏ và Buông Bỏ

Ông Jack Engler có nói rằng, ta cần phải có một cái tôi trước khi phá vỡ cái tôi của mình. Sự thật thì cả hai đều có thể được phát triển song song với nhau. Khi ta phát triển cái tôi của mình – như là một cảm nhận tự tin, và những đức tính cao thượng như là tinh tấn, tâm từ, tha thứ – ta cũng sẽ bắt đầu ý thức rằng mình không thể nào nắm giữ chúng mãi được. Tất cả chỉ là một phần của một tiến trình đổi thay, chỉ một điệu vũ mà thôi. Vì vậy mà cái tôi và cái tôi-siêu-việt, cả hai đều cần phải được phát huy cùng một lúc. Từ đó ta nhận thấy rằng, toàn thể tiến trình tu tập không phải là một trạng thái đặc biệt, và cũng không phải là một sự thành đạt nào hết, nó đơn giản chỉ là một tiến trình buông bỏ mà thôi.

Một người bạn của tôi tu tập nhiều năm ở Thái Lan và bây giờ ông là trú trì của sáu tu viện ở Anh có chia sẻ như vầy. Ông nói, “Sự thực tập buông bỏ rất có hiệu quả đối với những tâm thức nào còn quá nhiều những suy nghĩ và ham muốn, cho dù đó là những ham muốn tâm linh. Ta chỉ cần đơn giản hóa sự tu tập của mình trong hai chữ mà thôi: buông bỏ. Thay vì cố gắng thực tập theo pháp môn này hay pháp môn kia, thay vì học hết tam tạng kinh điển và được truyền giới trong năm, sáu truyền thống khác nhau, thay vì cố gắng trở thành một giáo thọ, thiền sư, hoặc được mời đi tham dự những đại hội, những hội nghị Phật giáo, chúng ta chỉ cần buông bỏ, buông bỏ và buông bỏ.” Nếu bạn thực tập được như vầy, bạn sẽ tránh được biết bao nhiêu là khổ đau trên con đường tu tập. Không có gì mà khổ đau cho bằng phải đi tham dự các đại hội và hội nghị Phật giáo.

Tiếp nhận được những truyền thống phong phú này, chúng ta nên học hỏi như thế nào? Chúng ta nên làm gì với chúng? Tôi muốn chúng ta có thể tạo dựng nên một tấm bản đồ tu tập chính xác hơn. Tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về những tầng tâm thức của mình và sự chuyển hóa của chúng. Nhưng trên hết, tôi muốn được mang cái gia tài tâm linh phong phú này áp dụng vào đời sống hằng ngày cho có ý nghĩa và hiệu quả. Chúng ta là một quốc gia của những người bị tê liệt sự chú ý. Làm sao bạn có thể thưởng thức được cái đẹp của thiên nhiên, ngoài công viên, nếu bạn không có khả năng chú ý? Trong văn hóa Tây phương chúng ta, đa số phải cần đến những sự kích thích mạnh, nếu không họ cảm thấy mình như là một xác chết. Chúng ta sống trong một xả hội tuy văn minh nhưng lại có quá nhiều những vết thương sâu đậm, chúng ta tìm cách che lấp chúng qua trăm ngàn cách khác nhau, bằng sự bận rộn của mình. Những vấn đề này không cho phép chúng ta nhìn thấy được một con đường tâm linh rộng lớn mở ngay trước mắt.

Và đó là những vấn đề và câu hỏi mà tôi muốn nêu ra với tất cả quý vị hôm nay.

Xin cám ơn tất cả quý vị.
Jack Kornfield.

 

 

Trả lời