Nội Dung Chính
Phần 12
1.2- Pháp-Hạnh Bố-Thí Ba-La-Mật Bậc Trung (Dāna Upapāramī)
Tích Sivijātaka (Xi-wi-cha-tá-ká)
Tích Sivijātaka này, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Đức-vua Sivi tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung (dāna upapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi, chư tỳ-khưu tụ hội tại giảng đường đàm đạo về Đức-vua Pasenadi Kosala làm phước-thiện bố-thí đủ mọi thứ vật dụng suốt bảy ngày. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự đến truyền hỏi rằng:
– Này chư Tỳ-khưu! Các con đang đàm đạo với nhau về vấn đề gì vậy?
Chư tỳ-khưu bạch với Đức-Thế-Tôn về vấn đề Đức-vua Pasenadi Kosala như vậy.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Trong kiếp quá khứ, bậc thiện-trí mỗi ngày xuất ra số tiền 600 ngàn kahāpaṇa (tiền Ấn xưa) mua sắm đủ mọi thứ vật-thí, để làm phước-thiện bố-thí đến những người nên bố-thí, thế mà vẫn chưa hài lòng hoan hỷ với những vật-thí thuộc về bên ngoài thân thể ấy (bāhiravatthudāna), nên suy nghĩ rằng:
“Nếu người thí-chủ bố-thí vật quý nhất thì sẽ được những điều cao quý nhất. Vật quý nhất đó là những bộ phận trong thân thể, hoặc sinh-mạng của mình.”
Bậc thiện-trí phát-nguyện rằng:
“Nếu có người nào đến xin bộ phận nào trong thân thể của ta thì ta hoan hỷ làm phước-thiện bố-thí bộ phận ấy cho người ấy ngay.”
Khi ấy, một vị Bà-la-môn già mù đôi mắt đến xin một con mắt của bậc thiện-trí, thì bậc thiện-trí vô cùng hoan hỷ liền bố-thí hai con mắt đến cho vị Bà-la-môn ấy ngay. Bậc thiện-trí không còn thấy gì nữa, nhẫn-nại chịu đựng nỗi khổ thân đau đớn kinh khủng, thế mà bậc thiện-trí phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có, bởi vì biết vị Bà la-môn già đã có đôi mắt sáng nhìn thấy được mọi vật.
Chư Tỳ-khưu kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết về tích bậc thiện-trí ấy.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Sivijātaka.
Tích Sivijātaka
Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Sivijātaka, Đức-vua Bồ-tát Sivi, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama được tóm lược như sau:
Trong thời quá khứ, Đức-vua Sivi ngự tại kinh-thành Ariṭṭhapura, trị vì đất nước Siviraṭṭha. Khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Thái-tử của Đức-vua Sivi được đặt tên là Sivikumāra: Thái-tử Sivi.
Khi trưởng thành, Đức-Bồ-tát Thái-tử Sivi được gởi đến kinh-thành Takkasilā, để theo học các bộ môn truyền thống của dòng dõi vua chúa. Sau khi học hành thành tài, có đầy đủ tài đức vẹn toàn, Đức-Bồ-tát Thái-tử Sivi ngự trở về đất nước Siviraṭṭha. Đức Phụ-vương tấn phong Đức-Bồ-tát Thái-tử Sivi lên ngôi Phó-vương.
Về sau, Đức Phụ-vương băng hà, Đức-Bồ-tát Phó-vương được chính thức làm lễ đăng quang lên ngôi vua, trở thành Đức-vua Bồ-tát Sivi ngự tại kinh-thành Ariṭṭhapura, trị vì đất nước Siviraṭṭha bằng thiện-pháp của Đức-vua.
Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền lệnh xây dựng 6 trại bố thí: 4 trại tại 4 cửa thành, 1 trại tại trung tâm kinh-thành và 1 trại tại trước cửa cung điện của Đức-vua.
Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền lệnh mỗi ngày xuất ra số tiền 600 ngàn đồng kahāpaṇa (tiền Ấn xưa), mua sắm đủ mọi thứ vật-thí cần thiết, để làm phước-thiện bố-thí đến những người nên bố-thí hằng ngày.
Vào những ngày giới là ngày mồng 8, ngày 14, ngày 15, ngày 23, ngày 29, ngày 30 hằng tháng, Đức-vua Bồ-tát Sivi cỡi voi báu ngự đến mỗi trại, tự tay làm phước-thiện bố-thí đôi ba người, rồi ngự đến trại bố-thí khác.
Một hôm vào ngày rằm, Đức-vua Bồ-tát Sivi ngự trên ngai vàng dưới chiếc lọng trắng suy xét rằng:
“Hằng ngày, ta đã làm phước-thiện bố-thí đủ mọi thứ vật-thí cần thiết đến cho những người nên bố-thí, thế mà ta vẫn chưa cảm thấy hài lòng hoan hỷ với những vật-thí thuộc về bên ngoài thân thể (bāhiravatthudāna)”, nên suy nghĩ rằng:
“Nếu người thí-chủ bố-thí vật quý nhất thì sẽ được những điều cao quý nhất. Vật quý nhất đó là những bộ phận trong thân thể, hoặc sinh-mạng của mình.”
“Thật ra, những thứ vật-thí thuộc về bên ngoài thân của ta dù quý giá đến mức nào đi nữa, cũng chưa làm cho ta phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ.
Vậy, ta nên bố-thí những bộ phận trong thân, hoặc sinh-mạng của ta thuộc những vật-thí bên trong thân (ajjhattikadāna) của ta.”
Sau khi suy nghĩ đúng đắn như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi thành tâm phát-nguyện rằng:
Hạnh phúc biết dường nào!
* Nếu có người nào đến nói lời xin trái tim của ta thì ta sẽ vô cùng hoan hỷ dùng con dao mổ lồng ngực lấy trái tim đầy máu của ta, bố-thí đến cho người ấy ngay.
* Nếu có người nào đến nói lời xin thịt trong thân của ta thì ta sẽ vô cùng hoan hỷ dùng con dao xẻo thịt của ta, bố-thí đến cho người ấy ngay.
* Nếu có người nào đến nói lời xin máu tươi của ta thì ta sẽ dùng con dao cắt mạch máu, để cho máu chảy đầy bình, rồi bố-thí đến cho người ấy ngay.
* Nếu có người nào đến nói lời xin ta dẫn về làm tôi tớ trong nhà thì ta sẵn sàng từ bỏ ngai vàng, để đi theo người ấy về nhà, làm người tôi tớ đắc lực và dễ bảo.
* Nếu có người nào đến nói lời xin đôi mắt của ta thì ta sẽ vô cùng hoan hỷ lấy đôi mắt của ta, bố-thí cho người ấy ngay,…”
Sau khi phát-nguyện như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi tắm sạch sẽ, dùng bữa ăn sáng, mặc trang phục vương triều, cỡi con voi báu, ngự đi đến trại bố-thí.
Đức-vua-trời Sakka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên theo dõi biết được những điều phát-nguyện của Đức-vua Bồ-tát Sivi trong đó có điều “bố-thí đôi mắt quý nhất của Đức-Bồ-tát”.
Biết lời phát-nguyện chân-thật của Đức-vua Bồ-tát Sivi, nên Đức-vua-trời Sakka hiện xuống cõi người, hóa ra thành vị Bà-la-môn già mù đôi mắt, đứng bên đường gần trại bố-thí.
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sivi ngự đến nơi, vị Ba-la-môn già mù chắp hai tay trên trán tán dương ca tụng Đức-vua Bồ-tát Sivi.
Nghe lời tán dương ca tụng của vị Bà-la-môn già mù như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi giục con voi báu đến gần vị Bà-la-môn ấy, truyền hỏi rằng:
– Này vị Bà-la-môn! Ngươi đã tán dương ca tụng Trẫm. Vậy, ngươi muốn xin vật gì nơi Trẫm?
Vị Bà-la-môn già mù đôi mắt (vốn là Đức-vua-trời Sakka) tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương, trong khắp mọi nơi đều tán dương ca tụng pháp-hạnh bố-thí của Đại-vương, nên kẻ tiện dân này là lão già mù đôi mắt, xin mạo muội kính xin Đại-vương ban cho kẻ tiện dân này một con mắt của Đại-vương, thay vào một con mắt mù của kẻ tiện dân, để cho được sáng mắt nhìn thấy đường đi và mọi vật.
Nghe lời tha thiết kính xin của vị Bà-la-môn già mù đôi mắt như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi suy nghĩ:
“Sáng nay, ta ngự trên ngai vàng thành tâm phát-nguyện rằng:
“Nếu có người nào đến nói lời xin đôi mắt của ta thì ta sẽ vô cùng hoan hỷ lấy đôi mắt, rồi đem đôi mắt của ta bố-thí cho người ấy ngay.”
Bây giờ, vị Bà-la-môn già mù đôi mắt đến nói lời xin một con mắt quý nhất của ta. Đây là cơ hội tốt hy hữu đã đến với ta hôm nay.
Thật là hạnh phúc biết dường nào! Điều phát-nguyện của ta chắc chắn sẽ thành tựu ngay hôm nay.
Ta sẽ tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, bố-thí đôi mắt của ta, mà trước đây ta chưa từng bố-thí.
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền hỏi vị Bà-la-môn già rằng:
– Này vị Bà-la-môn! Ai là người hướng dẫn nhà ngươi đến xin đôi mắt của Trẫm tại nơi này?
– Này vị Bà-la-môn! Chư bậc thiện-trí dạy rằng:
Đôi con mắt là bộ phận quý nhất của con người, nên ít người chịu hy sinh đôi mắt của mình đem bố-thí cho người khác.
Vị Bà-la-môn già mù tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương, Đức-vua-trời Sakka hướng dẫn kẻ tiện dân già mù này đến kính xin một con mắt của Đại-vương.
– Muôn tâu Đại-vương, thật vậy, chư bậc thiện-trí dạy rằng: “Con mắt là bộ phận quý nhất, nên ít người chịu hy sinh đôi mắt của mình đem bố-thí đến người khác.”
– Muôn tâu Đại-vương, Kính xin Đại-vương có tâm đại-bi ban cho kẻ tiện dân già mù này chỉ một con mắt của Đại-vương mà thôi. Ngoài ra, kẻ tiện dân già này không xin vật nào khác.
Nghe lời tha thiết kính xin của vị Bà-la-môn già đui mù như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền bảo rằng:
– Này vị Bà-la-môn! Tuy ngươi xin Trẫm ban cho ngươi chỉ một con mắt của Trẫm mà thôi, nhưng Trẫm sẽ ban cho ngươi cả hai con mắt của Trẫm. Rồi đây, ngươi sẽ nhìn thấy mọi vật bằng hai con mắt của Trẫm.
Sau khi truyền bảo với vị Bà-la-môn như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi nghĩ rằng:
“Tại nơi đây không thuận lợi để cho ta thực hiện pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, bố-thí hai con mắt này.
Vậy, ta nên truyền lệnh các quan mời vị Bà-la-môn già mù này đến cung điện, ta sẽ truyền bảo quan ngự y Sivika lấy hai con mắt của ta ra, rồi đặt vào hai con mắt của vị Bà-la-môn già ấy. Đó là điều an toàn nhất.”
Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền lệnh các quan mời vị Bà-la-môn già mù đi theo về cung điện của Đức-vua.
Khi biết Đức-vua Bồ-tát Sivi làm phước-thiện bố-thí đôi mắt, các quan, những người trong vương gia, hoàng tộc, toàn thể dân chúng đến chầu Đức-vua Bồ-tát Sivi tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, kính xin Bệ-hạ không nên bố-thí đôi mắt của Bệ-hạ, xin Bệ-hạ chỉ nên làm phước-thiện bố-thí những thứ của cải khác như đồ ăn, thức uống, đồ dùng, vàng bạc, châu báu, ngựa, voi báu, v.v… mà thôi.
– Muôn tâu Bệ-hạ, Bệ-hạ là Đức-vua cao cả nhất trong đất nước Siviraṭṭha này, là nơi nương nhờ của chúng thần cùng thần dân thiên hạ.
Kính xin Bệ-hạ có tâm đại-bi thương xót chúng thần cùng thần dân thiên hạ. Cho nên, kính xin Bệ-hạ không nên bố-thí đôi mắt của Bệ-hạ.
Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền bảo rằng:
– Này các khanh! Người nào đã hứa rằng: “Ta sẽ ban cho”. Rồi đổi ý, nói lại rằng: “Ta không ban cho”. Người ấy là người hèn hạ hơn cả người hèn hạ.
Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục Ussada chịu quả khổ lâu dài của ác-nghiệp ấy.
Thật ra, người nào đến xin vật nào, thì người thí-chủ nên bố-thí vật ấy đến cho người ấy.
Vị Bà-la-môn già mù đến tha thiết chỉ xin Trẫm ban cho y một con mắt của Trẫm mà thôi, không xin Trẫm một thứ của cải nào khác cả. Cho nên, Trẫm cũng chỉ bố-thí hai con mắt của Trẫm cho y mà thôi.
Khi ấy, các quan tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, Bệ-hạ cầu mong gì mà Bệ-hạ làm phước-thiện bố-thí hai con mắt của Bệ-hạ?
– Muôn tâu Bệ-hạ, kiếp hiện-tại này, Bệ-hạ là Đức-vua cao cả nhất trong đất nước Siviraṭṭha này, không có một ai cao thượng hơn Bệ-hạ. Vậy, Bệ-hạ làm phước-thiện bố-thí hai con mắt của Bệ-hạ, để cầu mong kiếp sau có phải không?
Nghe các quan tâu như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền bảo rằng:
– Này các khanh! Trẫm làm phước-thiện bố-thí hai con mắt của Trẫm không phải cầu mong đại-thiện-nghiệp này sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam cao thượng trên cõi trời dục-giới nào, hoặc làm Đức-vua-trời nào, cũng không phải cầu mong trở thành Đức-vua nước lớn, có nhiều của cải, hoàng-tử, công-chúa nào cả.
Thật ra, Trẫm bố-thí hai con mắt của Trẫm là làm theo chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền bối. Bởi vì không có Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác nào chưa tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác được.
Trẫm có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, cho nên Trẫm cần phải thực-hành pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung, bố-thí hai con mắt của Trẫm, để bồi bổ vào pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung ấy.
Trẫm không phải không biết yêu quý hai con mắt của Trẫm, cũng không phải không biết thương yêu Trẫm mà sự thật, Trẫm có ý nguyện tha thiết muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác hơn cả. Vì vậy, Trẫm cần phải bố-thí hai con mắt của Trẫm, để bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Trẫm, hầu mong trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.
Sau khi nghe Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền bảo, giảng giải như vậy, các quan và toàn thể dân chúng không còn ai tâu lời nào nữa.
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền gọi vị quan ngự y Sivika đến truyền bảo rằng:
– Này ngự y Sivika! Ngươi là quan ngự y tài giỏi, cũng là người bạn thân của Trẫm. Nay ngươi hãy thi hành theo lời yêu cầu của Trẫm rằng:
Với đôi bàn tay khéo léo, ngươi hãy thực hiện lấy hai con mắt của Trẫm ra, rồi đặt hai con mắt của Trẫm ấy vào trong hai con mắt của vị Bà-la-môn già mù ấy, để vị Bà-la-môn ấy có đôi mắt sáng nhìn thấy rõ mọi vật bằng hai con mắt của Trẫm.
Nghe lệnh truyền của Đức-vua Bồ-tát Sivi, quan ngự y Sivika tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, hai con mắt là bộ phận quan trọng của con người. Kính xin Bệ-hạ suy xét kỹ, có nên bố-thí hay không?
Đức-vua Bồ-tát Sivi khẳng định truyền lệnh rằng:
– Này ngự y Sivika! Trẫm đã suy xét kỹ rồi. Ngươi hãy mau thi hành phận sự của ngươi, cho Trẫm bố-thí đôi mắt của Trẫm để được thành tựu pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung.
Nghe lệnh của Đức-vua Bồ-tát Sivi như vậy, quan ngự y Sivika nghĩ rằng: “Ta không nên dùng con dao mổ lấy 2 con mắt của Đức-vua Sivi, mà ta nên bào chế một món thuốc xoa vào con mắt, làm cho con mắt nhô lên khỏi lỗ mắt.”
Nghĩ xong, quan ngự y Sivika bào chế thuốc, rồi đem dâng lên Đức-vua Sivi.
Đức-vua Bồ-tát Sivi xoa vào con mắt bên phải trước, Đức-vua Bồ-tát nhẫn-nại chịu đựng nỗi đau đớn kinh khủng, tiếp tục xoa vào mắt lần thứ nhì, lần thứ ba, thì con mắt bên phải nhô lên khỏi lỗ mắt, Đức-vua Bồ-tát nhẫn-nại chịu đựng nỗi khổ thân vô cùng đau đớn, dòng máu tươi chảy ra từ vết thương lỗ mắt, xuống gương mặt của Đức-vua Bồ-tát Sivi.
Quan ngự y lấy con mắt bên phải, rồi đặt trên bàn tay của Đức-vua Bồ-tát Sivi, tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, đây là con mắt bên phải của Bệ-hạ.
Đức-Vua Bồ-Tát Sivi Bố-Thí Con Mắt Bên Phải
Nhìn thấy con mắt bên phải bằng con mắt bên trái, Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền bảo vị Bà-la-môn già mù rằng:
“Mama ito akkhito sataguṇena sahassaguṇena satasahassaguṇena Sabbaññutaññāṇakkhimeva piya-taraṃ, tassa me idaṃ paccayo hotu”.
“Chỉ có tuệ-nhãn của bậc Toàn-Giác là nơi yêu quý nhất gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần con mắt của tôi đây mà thôi. Pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bố-thí con mắt này của tôi, xin làm duyên lành hỗ trợ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.”
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sivi tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, bố-thí con mắt bên phải cho vị Bà-la-môn già mù. Vị Bà-la-môn già ấy vốn là Đức-vua-trời Sakka nhận con mắt bên phải của Đức-vua Bồ-tát Sivi xong, rồi tự đặt vào lỗ con mắt bên phải, do oai lực của mình. Con mắt bên phải của vị Bà-la-môn già được sáng ra có khả năng nhìn thấy rõ mọi vật.
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sivi vô cùng hoan hỷ truyền bảo rằng:
“Aho! Sudinnaṃ mayā akkhidānaṃ.”
Ôi! Hạnh phúc thay! Tôi đã thành tựu pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, bố-thí con mắt rồi!
Đức-vua Bồ-tát Sivi phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ chưa từng có bao giờ, rồi truyền lệnh quan ngự y Sivika tiếp tục thi hành phận sự lấy con mắt bên trái.
Quan ngự y Sivika cũng thực hiện như lần trước, dâng thuốc lên Đức-vua Sivi xoa con mắt bên trái lần thứ nhất, lần thứ nhì, lần thứ ba, thì con mắt bên trái nhô lên khỏi lỗ mắt, Đức-vua Bồ-tát Sivi nhẫn-nại chịu đựng nỗi khổ thân vô cùng đau đớn, dòng máu chảy ra từ vết thương lỗ mắt, máu tươi dính đầy trên gương mặt của Đức-vua Bồ-tát Sivi.
Quan ngự y lấy con mắt bên trái, rồi đặt trên bàn tay của Đức-vua Bồ-tát Sivi, tâu rằng:
– Muôn tâu Bệ-hạ, đây là con mắt bên trái của Bệ-hạ.
Đức-Vua Bồ-Tát Sivi Bố-Thí Con Mắt Bên Trái
Bây giờ, Đức-vua Bồ-tát Sivi mù mắt không nhìn thấy gì nữa, tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, bố-thí con mắt bên trái cho vị Bà-la-môn già, vị Bà-la-môn già vốn là Đức-vua-trời Sakka nhận con mắt bên trái xong, rồi tự đặt vào con mắt bên trái, do oai lực của mình. Con mắt bên trái của vị Bà-la-môn già được sáng ra.
Nay vị Bà-la-môn già có đôi mắt sáng nhìn thấy rõ mọi vật. Vị Bà-la-môn già tán dương ca tụng, làm lễ cảm tạ Đức-vua Bồ-tát Sivi, rồi xin phép rời khỏi cung điện của Đức-vua Bồ-tát Sivi.
Sau khi rời khỏi cung điện của Đức-vua Sivi, vị Bà-la-môn già hóa trở lại Đức-vua-trời Sakka ngự trở về cung trời Tam-thập-tam-thiên.
Đức-vua Bồ-tát Sivi suy xét rằng:
“Hạnh phúc biết dường nào! Ta đã có được cơ hội tốt, tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung, bố-thí hai con mắt của ta đến vị Bà-la-môn già mù, được thành tựu như ý. Vị Bà-la-môn già có đôi mắt sáng nhìn thấy mọi cảnh vật trong đời, bằng đôi mắt của ta.”
Cho nên, Đức-vua Bồ-tát Sivi phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hỷ lạc chưa từng có bao giờ.
Đức-vua Bồ-tát Sivi ngự lên trên lâu đài nghỉ ngơi, để chữa trị vết thương hai lỗ mắt.
Một hôm, Đức-vua Bồ-tát Sivi suy nghĩ rằng:
“Nay ta đã mù hai con mắt rồi, ngôi vua không còn thích hợp với ta nữa. Vậy, ta nên trao ngôi vua lại cho các quan, còn ta nên ngự vào vườn thượng uyển, xuất gia trở thành đạo-sĩ thực-hành pháp-hạnh Sa-môn.”
Sau khi suy xét như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền lệnh cho các quan văn võ đông đủ hội triều. Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền bảo rằng:
– Này các khanh! Kể từ hôm nay, Trẫm xin trao ngôi vua lại cho các khanh. Các khanh nên chọn người lên làm vua trị vì đất nước Siviraṭṭha này. Còn Trẫm sẽ ngự vào vườn thượng uyển, xuất gia trở thành đạo-sĩ thực-hành pháp-hạnh Sa-môn. Trẫm chỉ cần một người theo giúp đỡ Trẫm mà thôi.
Nghe Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền bảo như vậy, các quan đều cảm thấy vô cùng cảm động rơi nước mắt. Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền gọi quan đánh xe ngựa chở Đức-vua ngự vào vườn thượng uyển.
Các quan không muốn Đức-vua ngự đi bằng xe ngựa, mà kính thỉnh Đức-vua ngự trên chiếc kiệu vàng, rồi các quan tự khiêng chiếc kiệu đi đến hồ nước lớn trong vườn thượng uyển. Các quan đặt chiếc kiệu bên bờ hồ nước lớn ấy, có lính hầu hạ Đức-vua Bồ-tát Sivi rất cẩn trọng. Đức-vua Bồ-tát Sivi đang ngự trên chiếc kiệu vàng suy xét về pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung, bố-thí hai con mắt của Đức-vua.
Khi ấy, chỗ ngồi của Đức-vua-trời Sakka cõi Tam-thập-tam-thiên phát nóng, Đức-vua-trời Sakka xem xét thấy rõ, biết rõ điều suy nghĩ của Đức-vua Bồ-tát Sivi, nên Đức-vua-trời Sakka nghĩ rằng:
“Ta nên hiện xuống cõi người, đến chầu Đức-vua Bồ-tát Sivi, ban ân huệ đến cho Đức-vua Bồ-tát Sivi có lại hai con mắt sáng đặc biệt nhìn thấu suốt như thể thiên-nhãn của chư-thiên.”
Đức-vua-trời Sakka hiện xuống bên bờ hồ nước lớn gần nơi Đức-vua Bồ-tát Sivi đang ngồi ngự nơi ấy. Đức-vua-trời Sakka ngự đi qua đi lại không xa chỗ ngồi của Đức-vua Bồ-tát Sivi.
Nghe tiếng chân người đi qua lại, Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền hỏi rằng:
– Ai đi qua, đi lại vậy?
Đức-vua-trời Sakka tâu rằng:
– Tâu Đại-vương Sivi, bổn vương là vua-trời Sakka ngự đến chầu Đại-vương. Kính xin Đại-vương chọn ân huệ nào mà Đại-vương muốn.
Nghe Đức-vua-trời Sakka truyền bảo như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi tâu rằng:
– Tâu Đức-vua-trời Sakka, của cải trong các kho của bổn vương đầy đủ. Bây giờ, bổn vương là Đức-vua mù, bổn vương chỉ hài lòng sự chết mà thôi.
Vậy, kính xin Đức-vua-trời Sakka ban ân huệ sự chết đến bổn vương.
Nghe Đức-vua Bồ-tát Sivi tâu như vậy, Đức-vua-trời Sakka tâu hỏi rằng:
– Tâu Đại-vương Sivi, Đại-vương muốn chấm dứt tuổi thọ, nên Đại-vương hài lòng sự chết, hay Đại-vương hài lòng sự chết, bởi vì Đại-vương là Đức-vua mù đôi mắt?
Đức-vua Bồ-tát Sivi tâu rằng:
– Tâu Đức-vua-trời Sakka, bổn vương hài lòng sự chết, bởi vì bổn vương là vua mù đôi mắt.
Đức-vua-trời Sakka tâu rằng:
– Tâu Đại-vương Sivi, đại-thiện-nghiệp bố-thí không chỉ cho quả an-lạc trong những kiếp vị-lai lâu dài, mà còn cho quả an-lạc ngay trong kiếp hiện-tại này nữa.
Thật ra, vị Bà-la-môn già mù đôi mắt chỉ xin Đại-vương ban cho một con mắt mà thôi, thế mà Đại-vương đã ban cho vị Bà-la-môn già mù ấy cả hai con mắt của Đại-vương. Vậy, kính xin Đại-vương phát-nguyện bằng lời chân-thật.
Sau khi Đại-vương phát-nguyện bằng lời chân-thật vừa dứt, thì hai con mắt mới mầu nhiệm đặc biệt sẽ được phát sinh lại hơn đôi mắt cũ gấp bội phần.
Nghe Đức-vua-trời Sakka truyền bảo như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi tâu rằng:
– Tâu Đức-vua-trời Sakka, nếu như Đức-vua-trời muốn ban hai con mắt cho bổn vương thì không nên làm như vậy, bởi vì bổn vương muốn có hai con mắt mới chỉ được phát sinh lại do năng lực quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí hai con mắt của bổn vương mà thôi.
Đức-vua-trời Sakka tâu rằng:
– Tâu Đại-vương Sivi, bổn-vương dù là vua trời Sakka cũng không có khả năng ban hai con mắt mới cho Đại-vương được đâu! Sự thật, hai con mắt mới ấy chỉ được phát sinh lại do năng lực quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí hai con mắt mà Đại-vương đã tạo mà thôi.
Đức-Vua Bồ-Tát Sivi Phát-Nguyện
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sivi thành tâm phát-nguyện bằng lời chân-thật rằng:
“Tất cả mọi người hành khất nào từ các giai cấp, dòng dõi khác nhau đến xin nơi Trẫm bố-thí. Tất cả mọi người hành khất ấy đều là những người yêu quý của Trẫm.
Do năng lực của lời chân-thật này, xin cho hai con mắt được phát sinh lại cho Trẫm.”
Đức-Vua Bồ-Tát Sivi Sáng Mắt
Sau khi Đức-vua Bồ-tát Sivi vừa dứt lời phát-nguyện chân-thật ấy.
Thật phi thường thay! Hai con mắt mầu nhiệm đặc biệt được phát sinh lại cho Đức-vua Bồ-tát Sivi. Nhưng hai con mắt này không phải là nhục-nhãn như mắt người bình thường, cũng không phải là thiên-nhãn như mắt chư-thiên.
Vì sao? Bởi vì thiên-nhãn phát sinh do nương nhờ nơi nhục-nhãn, mà nhục-nhãn của Đức-vua Bồ-tát Sivi đã bố-thí cho vị Bà-la-môn già mù trước đây rồi, và dù Đức-vua-trời Sakka cũng không có khả năng làm cho nhục-nhãn phát sinh trở lại như xưa được. Cho nên, hai con mắt mầu nhiệm đặc biệt của Đức-vua Bồ-tát Sivi được phát sinh do năng lực pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật của Đức-vua Bồ-tát Sivi.
Đức-vua Bồ-tát Sivi có hai con mắt mầu nhiệm đặc biệt sáng trở lại. Khi ấy, do oai lực của Đức-vua-trời Sakka, các quan văn võ trong triều cùng toàn thể dân chúng trong kinh-thành Ariṭṭhapura tụ hội tại hồ nước lớn trong vườn thượng uyển, Đức-vua-trời Sakka đứng trên hư không tán dương ca tụng ân-đức của Đức-vua Bồ-tát Sivi giữa các hội chúng đông đảo rằng:
– Tâu Đại-vương Sivi cao thượng đất nước Siviraṭṭha, Đại-vương đã phát-nguyện bằng lời chân-thật, hai con mắt mầu nhiệm đặc biệt được phát sinh lại như thể thiên-nhãn có khả năng nhìn thấu suốt xuyên qua các tường vách, thành trì, núi cao… xung quanh chu vi 100 do tuần (1 do tuần khoảng 20 cây số).
Sau khi tán dương ca tụng Đức-vua Bồ-tát Sivi xong, Đức-vua-trời Sakka thành kính đảnh lễ Đức-vua Bồ-tát Sivi, rồi xin phép từ giã, ngự trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Đức-Vua Bồ-Tát Sivi Hồi Cung
Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sivi hồi cung ngự trở lại kinh-thành Ariṭṭhapura, cùng với các quan văn võ và toàn thể dân chúng.
Dân chúng trong đất nước Siviraṭṭha nghe tin rằng: “Đức-vua Bồ-tát Sivi làm phước-thiện bố-thí đôi mắt cho vị Bà-la-môn già mù đôi mắt. Vị Bà-la-môn già ấy được sáng đôi mắt nhìn thấy mọi vật, còn Đức-vua Bồ-tát Sivi mù mắt không thấy gì nữa.
Sau đó, Đức-vua Bồ-tát Sivi đã phát-nguyện bằng lời chân-thật, thì hai con mắt mầu nhiệm đặc biệt được phát sinh cho Đức-vua Bồ-tát Sivi. Hai con mắt này như thể thiên-nhãn có khả năng nhìn thấy thấu suốt xuyên qua các tường vách, thành trì, núi cao,… chu vi 100 do tuần.”
Tin lành này được lan truyền khắp mọi nơi trong đất nước Siviraṭṭha, phần đông dân chúng trong đất nước, ai cũng muốn đến chầu, để chiêm ngưỡng Đức-vua Bồ-tát Sivi. Cho nên, dân chúng từ kinh-thành cho đến các miền trong đất nước Siviraṭṭha lũ lượt dẫn nhau đến cung điện của Đức-vua Bồ-tát Sivi, họ mang theo những phẩm vật quý giá của xứ sở dâng lên Đức-vua Bồ-tát.
Đức-vua Bồ-tát Sivi truyền lệnh các quan trang hoàng giảng đường lớn, để đón tiếp dân chúng, có pháp tòa sang trọng để thuyết pháp.
Khi Đức-vua Bồ-tát Sivi ngự đến giảng đường, ngồi trên pháp toà dưới chiếc lọng trắng, phía dưới có các quan trong triều đông đủ, những người trong hoàng tộc, cùng toàn thể dân chúng tụ hội đông đủ, Đức-vua Bồ-tát Sivi thuyết pháp dạy rằng:
– Này các khanh, cùng toàn thể thần dân thiên hạ! Các ngươi hãy nhìn hai con mắt của Trẫm, như thể thiên-nhãn được phát sinh do quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí hai con mắt thịt của Trẫm.
Vậy từ nay, các ngươi nên làm phước-thiện bố-thí đến người nên bố-thí.
– Này toàn thể dân chúng đất nước Siviraṭṭha! Có ai không bố-thí cho người hành khất đến chỗ mình hay không?
Trẫm khuyên các ngươi nên làm phước-thiện bố-thí. Khi bố-thí vật-thí yêu quý nhất đến người xứng đáng thọ thí, thì sẽ được quả báu đáng hài lòng hoan hỷ.
– Này các dân chúng Sivi! Các ngươi đang tụ hội nơi đây nhìn thấy hai con mắt của Trẫm như thể thiên-nhãn của chư-thiên. Hai con mắt của Trẫm có khả năng nhìn thấu suốt xuyên qua tường vách, thành trì, núi cao,… xung quanh chu vi khoảng 100 do tuần.
Trong cõi người này, bố-thí là cơ hội tốt nhất. Trẫm đã bố-thí hai con mắt thịt (nhục-nhãn), ngay kiếp hiện-tại, phước-thiện bố-thí ấy cho quả phát sinh hai con mắt như thể thiên-nhãn đã phát sinh đến Trẫm.
– Này các dân chúng Sivi! Các ngươi đã thấy phước-thiện bố-thí và quả của phước-thiện bố-thí như vậy.
Nếu có cơ hội thì các ngươi nên làm phước-thiện bố-thí trước rồi mới nên dung sau. Những người nào đã làm phước-thiện bố-thí rồi, đại-thiện-nghiệp bố-thí sẽ cho quả an-lạc. Những người ấy không bị bậc thiện-trí chê trách.
Sau khi họ chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trong cõi trời dục-giới, an hưởng mọi sự an-lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi trời ấy.
Nghe Đức-vua Bồ-tát Sivi thuyết pháp giảng dạy như vậy, từ đó về sau, các quan trong triều, toàn thể dân chúng Sivi phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-vua Bồ-tát Sivi, tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, thích làm phước-thiện bố-thí tùy thời, giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch, và thọ-trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.
Về sau, hằng tháng vào ngày 15 và ngày cuối tháng, toàn thể dân chúng đến tụ hội tại giảng đường lớn, Đức-vua Bồ-tát Sivi ngự đến giảng đường ấy, ngồi trên pháp toà thuyết pháp giảng dạy các quan cùng dân chúng đất nước Siviraṭṭha. Các quan cùng dân chúng đều hoan hỷ thực-hành theo lời giáo huấn của Đức-vua Bồ-tát Sivi.
Sau khi họ chết, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ hưởng mọi sự an-lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi trời dục-giới ấy.
Sau khi thuyết tích Sivijātaka, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Ngài xong, Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
– Này chư Tỳ-khưu! Bậc thiện-trí trong kiếp quá khứ không những hoan hỷ làm phước-thiện bố-thí đủ mọi thứ vật dụng cần thiết, của cải quý giá thuộc bên ngoài thân của mình, mà còn hoan hỷ làm phước-thiện bố-thí những bộ phận trong thân của mình nữa. Đức-vua Bồ-tát Sivi, tiền-kiếp của Như-Lai đã vô cùng hoan hỷ bố-thí hai con mắt yêu quý nhất của mình đến cho vị Bà-la-môn già mù đôi mắt ngay lúc ấy.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết về pháp tứ Thánh-đế, để tế độ chúng-sinh có duyên lành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân tuỳ theo năng lực các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
Tích Sivijātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại
Trong tích Sivijātaka này Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Đức-vua Bồ-tát Sivi trong thời quá khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu-kiếp của những nhân vật trong tích Sivijātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại của những nhân vật ấy như sau:
– Đức-vua-trời Sakka hóa ra vị Bà-la-môn già mù đôi mắt, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Anuruddha.
– Quan ngự y Sivika, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Ānanda.
– Các quan trong triều cùng toàn thể dân chúng đất nước Sivi, nay kiếp hiện-tại là tứ chúng: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.
Mưòi Pháp-Hạnh Ba-La-Mật
Tóm lược tích Đức-vua Bồ-tát Sivi, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đã tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung, bố-thí bộ phận trong thân, bố-thí hai con mắt quý nhất.
Ngoài ra, còn có chín pháp-hạnh ba-la-mật khác cũng đồng thành tựu như sau:
– Đức-vua Bồ-tát Sivi giữ gìn giới trong sạch, đó là pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi xuất gia trở thành đạo-sĩ, đó là pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi có trí-tuệ sáng suốt, đó là pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi có sự tinh-tấn không ngừng, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi có đức nhẫn-nại chịu đựng nỗi đau đớn, đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi nói lời chân-thật, đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi phát-nguyện bằng lời chân-thật, đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi có tâm-từ đối với tất cả chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật.
– Đức-vua Bồ-tát Sivi có tâm-xả đối với tất cả chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật.
Đó là 9 pháp-hạnh ba-la-mật cũng đồng thời thành tựu cùng với pháp-hạnh bố-thí Ba-la-mật bậc trung ấy.
Nhận Xét Về Tích Đức-Vua Bồ-Tát Sivi
Tích Đức-vua Bồ-tát Sivi, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung (dāna upapāramī) bố-thí hai con mắt quý nhất của Đức-Bồ-tát đến cho vị Bà-la-môn già mù đôi mắt.
– Pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung là 1 trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, cũng là 1 trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Đức-vua Bồ-tát Sivi tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tạo pháp-hạnh bố-thí hai con mắt quý nhất, thuộc bộ phận trong thân của Đức-Bồ-tát cho vị Bà-la-môn già mù đôi mắt, để thành tựu pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung.
Sau khi bố-thí hai con mắt xong, Đức-vua Bồ-tát Sivi hoàn toàn không nhìn thấy gì nữa, còn vị Bà-la-môn có đôi mắt sáng nhìn thấy rõ mọi vật.
Đức-vua Bồ-tát Sivi tuy trở thành Đức-vua mù và phải nhẫn-nại chịu đựng nỗi khổ thân, nhưng lại phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ, bởi vì biết mình đã thành tựu pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung rồi. Như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sivi tuy có khổ thân, nhưng không có khổ tâm.
Vậy, khổ thân với khổ tâm có hai trạng-thái khác biệt với nhau như thế nào?
* Khổ thân đó là thọ khổ (dukkhavedanā) đồng sinh với thân-thức-tâm thuộc bất-thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc với đối-tượng xấu, không đáng hài lòng. Khổ thân này liên quan đến tứ-đại: đất, nước, lửa, gió không điều hoà, khi mắc tiểu tiện, mắc đại tiện, khi đói, khi khát, khi bị bệnh hoạn ốm đau, hoặc khi bị thương tích, nên phát sinh nỗi khổ thân, hễ có thân thì ắt có khổ thân.
Cho nên, dù Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra-hán cũng không thể tránh khỏi được khổ thân này.
* Khổ tâm đó là thọ ưu (domanassavedanā) đồng sinh với sân-tâm có đối-tượng không đáng hài lòng.
Khổ tâm này thường phát sinh do mọi phiền-não, mà mọi phiền-não phát sinh do nương nhờ nơi bất-thiện-tâm (ác-tâm), trực tiếp là sân-tâm, nên đối với Đức-Phật, và chư bậc Thánh A-ra-hán và chư bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được hai sân-tâm không còn dư sót nữa, nên quý Ngài tuyệt nhiên không còn khổ tâm nào cả, nhưng Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra-hán vẫn còn có khổ thân, cho đến khi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Khổ thân làm liên lụy đến khổ tâm như thế nào?
Trong đời này, đối với tất cả mọi hạng phàm-nhân chưa diệt tận được 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm), nếu người nào khi gặp phải tai nạn, hoặc bị thương tích nặng, hoặc bị lâm bệnh nan y khó chữa, v.v… người ấy không biết nhẫn-nại chịu đựng, nên phát sinh phiền-não tham nương nhờ nơi tham-tâm muốn cho mau khỏi khổ thân, nhưng không được như ý, nên phát sinh phiền-não sân nương nhờ nơi sân-tâm sầu não, phiền muộn, làm cho người ấy khổ tâm do sân-tâm.
Như vậy, khổ thân làm liên lụy đến khổ tâm.
* Khổ thân không làm liên luỵ đến khổ tâm như thế nào?
Trong đời này, bậc thiện-trí nào còn là hạng phàm-nhân có đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ sáng suốt, dù khi gặp phải tai nạn, hoặc bị thương tích nặng, hoặc bị lâm bệnh nan y khó chữa, v.v… bậc thiện-trí ấy biết nhẫn-nại chịu đựng, tìm thầy giỏi thuốc hay chữa bệnh, bậc thiện-trí âý có nhẫn-nại đó là vô-sân tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, dù nỗi khổ thân đến thế nào, đại-thiện-tâm ấy vẫn chịu đựng được, không để sân-tâm phát sinh, nên không làm cho bậc thiện-trí ấy khổ tâm (không có tham-tâm là nhân, nên không có sân-tâm là quả).
Như vậy, khổ thân không làm liên luỵ đến khổ tâm.
Như trường hợp Đức-vua Bồ-tát Sivi đã có lời phát nguyện tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bố-thí hai con mắt trước đây, nay Đức-vua Bồ-tát Sivi có cơ hội tốt tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bố-thí hai con mắt ấy, nên phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bố-thí hai con mắt quý nhất của mình cho vị Bà-la-môn mù đôi mắt, giúp cho vị Bà-la-môn có được đôi mắt sáng nhìn thấy rõ mọi vật, còn Đức-vua Bồ-tát Sivi được thành tựu pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung.
Cho dù Đức-vua Bồ-tát Sivi không còn nhìn thấy gì nữa, vẫn nhẫn-nại chịu đựng nỗi khổ thân đau đớn kinh khủng, nhưng lại phát sinh đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ hỷ lạc chưa từng có bao giờ, bởi vì, Đức-vua Bồ-tát Sivi có cơ hội tốt tạo pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bố-thí hai con mắt quý nhất của mình cho vị Bà-la-môn mù đôi mắt nhìn thấy bằng hai con mắt của mình, còn Đức-vua Bồ-tát Sivi được thành tựu pháp pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung như ý.
Cho nên, Đức-vua Bồ-tát Sivi chỉ có khổ thân mà thôi, mà không có khổ tâm, bởi vì phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ.
Đối-Tượng Xấu, Đối-Tượng Tốt
Đối-tượng xấu hoặc đối-tượng tốt thường chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến thân mà thôi. Ví dụ:
– Nếu khi thân tiếp xúc với đối-tượng xấu (thô) thì phát sinh thân-thức-tâm hợp với thọ khổ (dukkha-vedanā) khổ thân (dukkhakāya), là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).
– Nếu khi thân tiếp xúc với đối-tượng tốt (mềm mại) thì phát sinh thân-thức-tâm hợp với thọ lạc (sukhavedanā) thân an-lạc (sukhakāya), là quả của đại-thiện-nghiệp.
* Đối-tượng xấu hoặc đối-tượng tốt đều có thể phát sinh ác-tâm hoặc đại-thiện-tâm. Ví dụ:
* Đối-Tượng Xấu Ví Như Tử-Thi
– Nếu người nào không phải là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, một mình đi vào rừng gặp tử thi thì sân-tâm phát sinh hoảng sợ, kinh hồn bạt vía.
– Nếu hành-giả nào thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch, đã từng học pháp-hành thiền-định về đề-mục tử thi, một mình đi vào rừng may mắn gặp được tử thi, thì hành-giả ấy sử dụng tử thi làm đối-tượng thiền-định, rồi thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, và tiếp tục sử dụng đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm làm nền tảng, làm đối-tượng thiền-tuệ, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thóat khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Như vậy, tử thi là đối-tượng bất-tịnh đáng ghê sợ, đối với người (không phải là hành-giả) sân-tâm phát sinh hoảng sợ, kinh hồn bạt vía, nhưng đối với hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch, có đề-mục tử thi bất-tịnh đáng ghê sợ làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành thiền-định làm nền tảng, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
* Đối-Tượng Tốt Ví Như Đức-Phật
– Đối với nhóm ngoại đạo, nếu nhìn thấy Đức-Phật thì sân-tâm phát sinh, chê trách đủ điều.
– Nhưng đối với các hàng Thanh-văn đệ-tử, khi thấy Đức-Phật thì phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ, có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, thực-hành theo lời giáo huấn của Đức-Phật, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Như vậy, Đức-Phật là đối-tượng đáng tôn kính, thế mà đối với ngoại đạo thì tâm sân (ác tâm) phát sinh, còn đối với các hàng Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật thì phát sinh đức-tin trong sạch.
Thật ra, ác-tâm hoặc mọi thiện-tâm phát sinh không tuỳ thuộc vào đối-tượng xấu hoặc đối-tượng tốt, mà chỉ tuỳ thuộc vào tâm hiểu biết của con người ấy mà thôi.
– Nếu người ác nào có ayonisomanasikāra: do si mê biết lầm ở trong tâm không đúng theo thật-tánh của các pháp nơi đối-tượng ấy, thì người ấy phát sinh bất-thiện-tâm (ác-tâm) nơi đối-tượng ấy.
– Nếu bậc thiện-trí nào có yonisomanasikāra: trí-tuệ hiểu biết ở trong tâm đúng theo thật-tánh của các pháp nơi đối-tượng ấy thì bậc thiện-trí ấy phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nơi đối-tượng ấy.
(Xong pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung)