Phần 23

3.3- Pháp-Hạnh Xuất-Gia Ba-La-Mật Bậc Thượng (Nekkhammaparamatthapāramī)

Tích Cūḷasutasomajātaka (Chù-lá-xu-tá-xô-má)

Tích Cūḷasutasomajātaka Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Đức-vua Sutasoma thực-hành pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật bậc thượng (Nekkham-maparamatthapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi thấy số đông người có đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn theo xuất gia trở thành tỳ-khưu thành một hội chúng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng rất đông đảo, nên họ tán dương ca tụng với nhau rằng:

– Đức-Thế-Tôn có oai lực phi thường, đã thuyết pháp tế độ 3 huynh đệ Kassapa cùng với nhóm 1.000 đệ-tử phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, đều từ bỏ tà-kiến thờ thần lửa, theo xuất gia trở thành tỳ-khưu Thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn, và những người khác cũng từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành tỳ-khưu thành hội chúng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đông đảo như thế này. Thật là điều phi thường chưa từng có!

Nghe dân chúng tán dương ca tụng như vậy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

– Này các cận-sự-nam, cận-sự-nữ! Kiếp hiện-tại, Như-Lai là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thuyết pháp tế độ các hàng Thanh-văn đệ-tử phát sinh đức-tin trong sạch xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo pháp của Như-Lai đông đảo như thế này, không phải là điều phi thường.

Trong quá khứ, tiền-kiếp của Như-Lai còn là Đức-vua Bồ-tát Sutasoma từ bỏ ngai vàng xuất gia trở thành đạo-sĩ đi vào rừng núi Himavanta. Khi ấy, toàn thể hoàng tộc, các quan, quân lính, dân chúng trong kinh-thành và dân chúng ngoài thành cũng từ bỏ nhà đi theo vị Đạo-sĩ Sutasoma xin xuất gia trở thành đạo-sĩ rất đông đảo. Đó mới thật là điều phi thường!

Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, dân chúng kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết về Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, tiền-kiếp của Ngài.

Tích Cūḷasutasomajātaka

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết về tiền-kiếp của Ngài là Đức-vua Bồ-tát Sutasoma từ bỏ ngai vàng, xuất gia trở thành Đạo-sĩ, đi vào rừng núi Himavanta. Nhiều người đi theo Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma, xin xuất gia trở thành đạo-sĩ. Tích này được tóm lược như sau:

Trong thời quá-khứ, kinh-thành Bārāṇasī này có tên Sudassana, Đức-vua Brahmadatta ngự tại kinh-thành ấy. Khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm Thái-tử của bà Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Brahmadatta. Đức-Bồ-tát tên là Thái-tử Sutasoma.

Đức-Bồ-tát Thái-tử Sutasoma trưởng thành được Đức-vua Brahmadatta gửi đi học tại xứ Takkasilā. Sau khi Ngài học thành tài, văn võ song toàn đã trở về kinh-thành Sudassana và được Đức Phụ-vương làm lễ đăng quang truyền ngôi báu, Thái-tử Sutasoma lên ngôi vua trị vì thần dân thiên hạ bằng thiện pháp.

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma có Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī đứng đầu 700 Hoàng-hậu cùng với 16.000 cung phi mỹ nữ. Đức-vua Bồ-tát Sutasoma có rất nhiều hoàng-tử và công-chúa. 

Về sau, Đức-vua Bồ-tát Sutasoma cảm thấy nhàm chán ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục), có ý nguyện muốn xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Một hôm, Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền lệnh cho gọi người thợ cắt tóc, sửa râu đến, rồi truyền bảo rằng:

– Này khanh! Nếu khi nào nhà ngươi nhìn thấy trên đầu của Trẫm có sợi tóc bạc, thì nhà ngươi hãy tâu cho Trẫm rõ.

Người thợ cắt tóc, sửa râu tuân lệnh Đức-vua Bồ-tát Sutasoma. Trải qua một thời gian rất lâu sau, người thợ nhìn thấy một sợi tóc bạc trên đầu của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, nên tâu rằng:

– Muôn tâu Bệ-hạ, kẻ hạ thần đã nhìn thấy một sợi tóc bạc trên đầu của Bệ-hạ.

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền lệnh rằng:

– Này khanh! Nhà ngươi hãy nhổ sợi tóc bạc ấy, rồi đặt trên tay của Trẫm.

Tuân lệnh Đức-vua Bồ-tát, người thợ cắt tóc lấy cái nhíp bằng vàng nhổ sợi tóc bạc ấy lên, rồi đặt trên tay của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma. Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy sợi tóc bạc ấy, rồi suy tư rằng:

“Thân của ta bị sự già khống chế rồi!”

Cầm sợi tóc bạc, Đức-vua Bồ-tát Sutasoma từ trên lâu đài đi xuống, ngự trên ngai vàng giữa triều đình bá quan văn võ và dân chúng. Đức-vua Bồ-tát Sutasoma cầm sợi tóc bạc đưa lên, rồi dõng dạc truyền bảo rằng:

– Này các khanh! Sợi tóc bạc đã mọc trên đầu của Trẫm, báo hiệu cho Trẫm biết rằng:

Trẫm đã đến tuổi già rồi!

– Này các khanh! Trẫm truyền cho các khanh biết, Trẫm sẽ từ bỏ ngai vàng, đi xuất gia trở thành đạo-sĩ. 

Nghe lời truyền bảo của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, mọi người đều sửng sốt như chết điếng. Một vị quan còn giữ được thái độ bình tĩnh bèn tâu rằng:

– Muôn tâu Bệ-hạ, nghe Bệ-hạ truyền như vậy, chúng hạ thần cảm thấy vô cùng khổ tâm, như bị mũi dao nhọn đâm vào tim.

– Muôn tâu Bệ-hạ, Bệ-hạ là Đấng Minh-quân, chúng thần dân thiên hạ đều nương nhờ nơi ân-đức của Bệ-hạ. Nếu Bệ-hạ từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, chúng hạ thần sẽ nương nhờ nơi nào, còn Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, và 700 Hoàng-hậu cùng với 16.000 cung phi mỹ nữ, các hoàng-tử, các công-chúa của Bệ-hạ sẽ nương nhờ vào đâu?

– Muôn tâu Bệ-hạ, nếu Bệ-hạ từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ thì đó thật là điều bất hạnh lớn cho chúng thần dân thiên hạ. Tâu Bệ-hạ.

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền bảo rằng:

– Này các khanh! Chánh-cung Hoàng-hậu và 700 Hoàng-hậu cùng với 16.000 cung phi mỹ nữ còn trẻ đến nương nhờ nơi Đức-vua khác cũng được. Còn Trẫm chắc chắn sẽ từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ mà thôi.

Khi các quan biết không thể nào khuyên can xin Đức-vua bỏ ý định đi xuất gia được, nên họ cùng nhau đến chầu Hoàng-thái-hậu, Mẫu-hậu của Đức-vua, tâu rằng:

– Muôn tâu Hoàng-thái-hậu, Đức-vua có ý định chắc chắn sẽ từ bỏ ngai vàng, đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Nghe các quan tâu như vậy, Hoàng-thái-hậu liền ngự đến gặp Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, truyền hỏi rằng:

– Này Hoàng-nhi Sutasoma! Mẹ đã mang thai suốt mười tháng khó khăn vất vả, đến khi con sinh ra đời, rồi nuôi dưỡng con trưởng thành, mẹ đặt nhiều hy vọng ở nơi con. Bây giờ, mẹ đang ngồi than khóc khẩn khoản van xin con, mà con không thương mẹ, bỏ mẹ già đi xuất gia cho được hay sao?

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma ngồi lặng thinh không tâu lời nào với Mẫu-hậu.

Tiếp theo, các quan đến chầu Đức Thái-thượng-hoàng, Phụ-vương của Đức-vua, tâu rằng:

– Muôn tâu Đức Thái-thượng-hoàng, Đức-vua có ý định chắc chắn sẽ từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Đức Thái-thượng-hoàng ngự đến gặp Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền bảo rằng:

– Này Hoàng-nhi Sutasoma! Xuất gia là gì? Hành phạm-hạnh là gì? Mà con không biết thương cha mẹ già, con đành bỏ cha mẹ già mà đi xuất gia trở thành đạo-sĩ được hay sao? Hỡi con!

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma ngồi lặng thinh, không tâu lời nào với Đức Phụ-vương. Đức Thái-thượng-hoàng truyền bảo tiếp rằng:

– Này Hoàng-nhi! Nếu con không biết thương cha mẹ già, thì con cũng biết thương đến các hoàng-tử, các công-chúa của con chứ!

Chúng nó đang còn nhỏ dại, ngây thơ thật đáng yêu. Con nên chờ cho chúng nó trưởng thành lớn khôn rồi, khi ấy, con muốn đi xuất gia trở thành đạo-sĩ cũng được. Bây giờ, con đi xuất gia, con bỏ chúng nó chịu cảnh bơ vơ mồ côi cha. Thật đáng thương như vậy được hay sao!

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma tâu với Đức Thái-thượng-hoàng rằng:

– Muôn tâu Đức Phụ-vương, trong đời này, tất cả mọi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ, tất cả mọi vật dù lớn dù nhỏ cũng đều có sự sinh, sự diệt là thường. Tất cả các pháp đều là vô-thường, là khổ cả. Cho nên, con không những xa lìa những đứa con yêu quý của con, mà còn xa lìa cả Đức Phụ-vương, Mẫu-hậu cùng tất cả mọi chúng-sinh, mọi vật trong đời.

Nghe tâu như vậy, Đức Thái-thượng-hoàng làm thinh.

Khi ấy, các quan đến chầu 700 Hoàng-hậu của Đức-vua, tâu cho quý Bà biết rõ rằng:

“Đức-vua có ý định chắc chắn sẽ từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.”

700 bà Hoàng-hậu đến chầu Đức-vua Bồ-tát Suta-soma, rồi than khóc rằng:

– Muôn tâu Hoàng-thượng, trong tâm của Hoàng-thượng không còn thương yêu các thần-thiếp nữa phải không? Hoàng-thượng không thương đến cuộc đời của các thần-thiếp.

Nếu Hoàng-thượng từ bỏ các thần-thiếp đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, thì cuộc đời của các thần-thiếp trở thành những người đàn bà góa bụa. Các thần-thiếp khổ tâm đang than khóc, Hoàng-thượng không phát sinh tâm đại-bi thương xót mà bỏ các thần-thiếp đi xuất gia trở thành đạo-sĩ được hay sao?

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền bảo rằng:

– Này các ái-khanh! Tuy trong tâm của Trẫm vẫn còn thương yêu các ái-khanh, nhưng Trẫm phải từ giã các ái-khanh đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, bởi vì, xuất gia là pháp-hạnh cao thượng mà chư bậc thiện-trí đều tán dương ca tụng. Vì vậy, các ái-khanh chớ nên buồn tủi khổ tâm.

Tiếp theo, các quan đến chầu Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, tâu cho Bà biết rõ ý định chắc chắn Đức-vua Bồ-tát Sutasoma sẽ từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī ngự đến chầu Đức-vua Bồ-tát Sutasoma tâu rằng:

– Muôn tâu Hoàng-thượng cao thượng, thần-thiếp là Chánh-cung Hoàng-hậu của Hoàng-thượng. Thần-thiếp đang khóc than khẩn khoản van xin Hoàng-thượng, nỡ nào bỏ thần-thiếp đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

– Muôn tâu Hoàng-thượng cao thượng, thần-thiếp là Chánh-cung Hoàng-hậu của Hoàng-thượng. Thần-thiếp đang mang thai gần đến ngày sinh nở, thần-thiếp khẩn khoản van xin Hoàng-thượng chờ đợi cho đến khi thần-thiếp sinh con xong, đừng để thần-thiếp trở thành người đàn bà goá bụa cô đơn, chịu cảnh khổ tâm.

Đức-vua Bồ-tát truyền bảo rằng:

– Này ái-khanh Candādevī! Bào thai của ái-khanh đến khi đủ ngày đủ tháng sinh ra được an toàn cả mẹ lẫn con, con của chúng ta sẽ là hoàng-tử khôi ngô tuấn tú. Mặc dù vậy, Trẫm vẫn từ giã cả hoàng-tử lẫn ái-khanh đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Nghe Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền bảo như vậy, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī vô cùng tủi thân khóc tức tưởi tâu rằng:

– Muôn tâu Hoàng-thượng cao thượng, kể từ nay sự an-lạc hạnh phúc của thần-thiếp không còn nữa!

Tâu xong, hai tay bà ôm lấy ngực khóc than thảm thiết. Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền lời an ủi rằng:

– Này ái-khanh Candādevī! Ái-khanh đừng khóc nữa! 

– Này ái-khanh Candādevī! Ái-khanh không nên sầu não nữa!

Ái-khanh nên trở lại lâu đài của mình, còn Trẫm không còn ràng buộc, không còn dính mắc quyến luyến nữa. Trẫm sẽ từ bỏ ngôi báu này và cả ái-khanh, từ bỏ tất cả, đi vào rừng núi Himavanta, xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Nghe lời truyền bảo của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī vô cùng buồn tủi khổ tâm, gượng đứng dậy rồi thất tha thất thểu, ngự trở về lâu đài, ngồi khóc than.

Khi ấy, vị Thái-tử của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, nhìn thấy Mẫu-hậu khóc than, nên nghĩ rằng:

“Do nguyên nhân nào mà Mẫu-hậu của ta ngồi khóc như vậy!”

Thái-tử liền đến chầu Mẫu-hậu bèn tâu rằng:

– Tâu Mẫu-hậu, người nào đã làm cho Mẫu-hậu buồn khổ như vậy? Do nguyên nhân nào làm cho Mẫu-hậu khóc như vậy? Sao Mẫu-hậu chăm chú nhìn con khác thường như vậy?

– Kính xin Mẫu-hậu truyền bảo cho con biết người nào, con sẽ trị tội người ấy.

Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī truyền bảo rằng:

– Này Hoàng-nhi yêu quý! Người nào là chủ của đất nước này, người ấy đã làm cho mẹ khổ tâm. Do lời nói của người ấy làm cho mẹ tủi thân nên mẹ khóc.

– Này Hoàng-nhi yêu quý! Người ấy con không thể nào trị tội được đâu! Bởi vì người ấy chính là Đức Phụ-vương của con. Đức Phụ-vương của con đã truyền bảo với mẹ rằng:

“Trẫm sẽ từ bỏ ngôi báu này và cả ái-khanh, từ bỏ tất cả, đi vào rừng núi Himavanta, xuất gia trở thành đạo-sĩ.”

Đó là nguyên nhân khiến cho mẹ khổ tâm buồn tủi khóc than.

Nghe lời truyền bảo của Mẫu-hậu, Thái-tử tâu với Mẫu-hậu rằng:

– Tâu Mẫu-hậu, như vậy, tất cả chúng ta sẽ trở thành những người mồ côi không nơi nương nhờ.

Rồi than khóc, kể lể rằng:

“Ngày trước, Đức Phụ-vương, Mẫu-hậu cùng các con thường ngự đến vườn thượng uyển, các con vui chơi các trò thể thao, … Còn từ nay, khi Đức Phụ-vương đã đi xuất gia trở thành đạo-sĩ rồi, các con sẽ sống như thế nào đây!”

Thấy Mẫu-hậu và Hoàng-huynh trưởng đang khóc, vị hoàng-tử mới lên bảy tuổi chạy đến chầu Mẫu-hậu rồi tâu:

– Tâu Mẫu-hậu, do nguyên nhân nào mà Mẫu-hậu và hoàng-huynh trưởng khóc như vậy? Xin Mẫu-hậu truyền bảo cho con biết được không?

Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī giải thích nguyên nhân làm cho hai mẹ con khóc, vị tiểu hoàng-tử an ủi Mẫu-hậu rằng:

– Tâu Mẫu-hậu, xin Mẫu-hậu không nên buồn khổ khóc than nữa, con sẽ không chịu để cho Đức Phụ-vương của con từ bỏ Mẫu-hậu và các huynh đệ của chúng con đi xuất gia trở thành đạo-sĩ được đâu!

Vị tiểu hoàng-tử và nhũ mẫu đến chầu Đức-vua Bồ-tát Sutasoma tâu rằng:

– Muôn tâu Đức Phụ-vương, con nghe nói Đức Phụ-vương sẽ bỏ Mẫu-hậu và các con đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, Mẫu-hậu và Hoàng-huynh trưởng của con đang ngồi khóc. Con nắm chặt tay của Đức Phụ-vương, không chịu để cho Đức Phụ-vương bỏ Mẫu-hậu và các con đi xuất gia được đâu!

Khi ấy, vị tiểu hoàng-tử nắm chặt tay của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma không chịu buông ra. Đức-vua Bồ-tát nghĩ ra cách nhờ đến nhũ mẫu, nên truyền gọi bà rằng:

– Này nhũ mẫu! Bà hãy lại đây, Trẫm ban cho bà viên ngọc maṇi quý giá này, nhờ bà dẫn hoàng-tử này đi chơi nơi khác, đừng để hoàng-tử ở đây làm trở ngại việc xuất gia của Trẫm.

Bà nhũ mẫu cung kính nhận viên ngọc maṇi, rồi dẫn vị hoàng-tử rời khỏi Đức-vua Bồ-tát Sutasoma. Khi ấy, bà nhũ mẫu lại than khóc rằng:

– Sao tôi lại làm như vậy! Đức-vua ban cho tôi viên ngọc maṇi phát ra ánh sáng chói lọi, rồi truyền tôi dẫn hoàng-tử rời khỏi tay của Đức-vua, không để vị hoàng-tử làm trở ngại việc xuất gia của Đức-vua.

Vậy, viên ngọc maṇi này còn có lợi ích gì đối với tôi nữa, một khi Đức-vua đã từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành vị đạo-sĩ!

Khi ấy, vị quan thủ kho Mahāsenagutta tâu rằng:

– Muôn tâu Bệ-hạ, các kho lớn và nhỏ của Bệ-hạ đầy của cải, trong toàn cõi đất nước của Bệ-hạ đều được an lành thịnh vượng.

Vậy, kính xin Bệ-hạ an hưởng mọi sự an-lạc trong đời.

Kính xin Bệ-hạ đừng bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ nữa.

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền bảo rằng:

– Này các khanh! Tuy các kho lớn và nhỏ của Trẫm đầy của cải, trong toàn cõi đất nước của Trẫm đều được an lành thịnh vượng, nhưng Trẫm vẫn từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Vị quan Mahāsenagutta biết không thể van xin Đức-vua được, nên xin phép lui ra, thì ông phú hộ Kula-vaḍḍhana xin vào chầu Đức-vua Bồ-tát rồi tâu rằng:

– Muôn tâu Bệ-hạ, của cải của tiện dân nhiều đến nỗi không sao kể xiết, kẻ tiện dân này xin kính dâng tất cả mọi thứ của cải tài sản ấy lên Bệ-hạ.

Kính xin Bệ-hạ hoan hỷ thọ nhận tất cả mọi thứ của cải tài sản ấy nộp vào kho của Bệ-hạ. Tiện dân chỉ van xin một điều là Bệ-hạ đừng từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ nữa.

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền bảo rằng:

– Này ông phú hộ Kulavaḍḍhana! Tuy khanh dâng tất cả mọi thứ của cải tài sản của khanh nhiều không sao kể xiết đến Trẫm, nhưng Trẫm vẫn quyết định từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Biết không thể van xin Đức-vua Bồ-tát Sutasoma được nên ông phú hộ Kulavaḍḍhana xin phép lui ra. Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền lệnh cho mời vị Hoàng-đệ Somadatta đến rồi truyền bảo rằng:

– Này Hoàng-đệ Somadatta! Hoàng-huynh cảm thấy không vui thích trong đời sống của người tại gia bị ràng buộc nữa. Cho nên, Hoàng-huynh quyết định sẽ đi xuất gia trở thành vị đạo-sĩ, trong ngày hôm nay.

– Này Hoàng-đệ Somadatta! Hoàng-huynh xin nhường ngôi báu lại cho Hoàng-đệ trị vì đất nước này.

Nghe Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền bảo như vậy, vị Hoàng-đệ Somadatta tâu rằng:

– Tâu Hoàng-huynh, Hoàng-huynh quyết định đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, kính xin Hoàng-huynh cho phép đệ được đi xuất gia cùng với Hoàng-huynh trong ngày hôm nay, bởi vì đệ không thể sống xa Hoàng-huynh được.

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma khuyên bảo Hoàng-đệ rằng:

– Này Hoàng-đệ Somadatta! Hoàng-đệ chưa nên đi xuất gia bây giờ, Hoàng-đệ cần phải ở lại cung điện thay Hoàng-huynh lên ngôi vua trị vì đất nước này, đồng thời lo phụng dưỡng Đức Phụ-vương và Mẫu-hậu của chúng ta.

Nếu cả hai huynh đệ cùng đi xuất gia thì thần dân thiên hạ không có nơi nương nhờ, Đức Phụ-vương và Mẫu-hậu càng thêm khổ tâm.

Khi ấy, toàn thể dân chúng trong kinh-thành Sudassana kéo nhau đến chầu Đức-vua Bồ-tát Sutasoma rồi than khóc rằng:

– Muôn tâu Đại-vương, nếu Đại-vương đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, thì đám tiện dân chúng con sẽ không có nơi nương nhờ.

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền lời khuyên rằng:

– Này các thần dân thiên hạ! Các ngươi chớ nên buồn khổ khóc than nữa. Dù Trẫm ở lại ngự trị trên ngai vàng, chắc chắn cũng có ngày phải băng hà, xa lìa các ngươi thôi. Bởi vì, tất cả mọi chúng-sinh, dù già dù trẻ cũng đều phải chết cả. Tất cả các pháp hữu vi sinh rồi diệt, là vô thường, là khổ. Cho nên, dù pháp hữu vi nhỏ nhất cũng không thể là thường được, nó cũng chỉ là vô-thường mà thôi.

Trẫm biết rằng: “Con người bị sự già khống chế dẫn đi, sinh-mạng con người quá ngắn ngủi, như nước còn ít trong cái hồ nhỏ lúc trời nắng hạn mau cạn.

Thế mà những người thiểu trí xem như chưa già, chưa chết, thường say mê trong ngũ-dục, dể duôi trong mọi thiện-pháp.

Những người thiểu trí ấy bị tham-ái dẫn dắt tạo mọi ác-nghiệp. Cho nên, sau khi họ chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh trong bốn cõi ác-giới: địa ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

Sau khi thuyết pháp giảng giải cho dân chúng hiểu rõ về sinh-mạng con người là ngắn ngủi như vậy, Đức-vua Bồ-tát Sutasoma ngự lên lâu đài, đứng trên tầng lầu thứ bảy, lấy thanh gươm báu cắt đứt mái tóc, rồi ném xuống đất giữa nhóm dân chúng tụ hội, truyền bảo rằng:

– Bây giờ ta không phải là Đức-vua của các ngươi nữa, các ngươi nên đi tìm Đức-vua khác mà nương nhờ.

Nhóm dân chúng đón nhận nắm tóc của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, rồi ngã lăn xuống đất khóc than rằng:

– Đức-vua, Đấng Pháp-vương của chúng ta đã cắt mái tóc rồi!

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền lệnh vị quan thân tín đi tìm mua sắm những thứ vật dụng của đạo-sĩ, truyền gọi người thợ cắt tóc đến cắt tóc, cạo râu.

Đức-Vua Bồ-Tát Sutasoma Đi Xuất Gia

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma cởi bỏ bộ triều phục và những đồ trang sức của nhà vua ra, mặc bộ y phục màu lõi mít, xuất gia trở thành đạo-sĩ, mang bát đất, tay cầm cây gậy bước xuống lâu đài đi ra khỏi cung điện mà không một ai nhận biết ra Đức Bồ-tát đạo-sĩ Sutasoma. 

Sau đó, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī dẫn đầu 700 bà Hoàng-hậu của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma đi lên lâu đài chầu Đức-vua, thì không thấy Đức-vua nữa, chỉ thấy bộ triều phục và những đồ trang sức của Đức-vua để lại đặt trên bàn mà thôi.

Tất cả họ bước thất thểu xuống lâu đài, rồi thông báo cho 16.000 cung phi mỹ nữ của Đức-vua biết rằng:

– Hoàng-thượng của chúng ta đã đi xuất gia rồi!

Nghe tin như vậy, các bà cung phi mỹ nữ đều buồn khổ khóc than.

Dân chúng trong kinh-thành Sudassana và dân chúng ngoại thành nghe tin Đức-vua Bồ-tát Sutasoma đã từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, mọi người đều sửng sốt, buồn khổ, khóc than, đến tụ hội lại trước cung điện của Đức-vua.

Khi ấy, Đức Thái-thượng-hoàng truyền lệnh các quan quân trong triều đình đi tìm chỗ ở của Đức-vua Bồ-tát Sutasoma. Khi gặp Đức-vua Sutasoma trong hình dáng, tướng mạo một vị đạo-sĩ, các quan trở về triều đình tâu lên Đức Thái-thượng-hoàng, Hoàng-thái-hậu, thông báo cho các quan trong triều, cho đến toàn thể dân chúng trong kinh-thành Sudassana và toàn dân trong nước đều biết rằng:

– Đức-vua Sutasoma đã xuất gia trở thành đạo-sĩ rồi!

Xuất Gia Theo Đức-Bồ-Tát Đạo-Sĩ

Khi ấy, Đức Thái-thượng-hoàng, Hoàng-thái-hậu, Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, 700 Hoàng-hậu, 16.000 cung phi mỹ nữ, Thái-tử, các hoàng-tử, các công-chúa, toàn thể những người trong dòng dõi hoàng tộc, các quan, các quân, … đều từ bỏ cung điện đi theo Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma, để xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Sau đó, toàn thể dân chúng trong kinh-thành Sudassana đều từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản dắt dẫn con cháu cùng đi theo Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma, để xuất gia trở thành đạo-sĩ. Cho nên, kinh-thành Sudassana trở nên trống vắng không một bóng người.

Thấy vậy, dân chúng ngoại thành cũng từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản đi theo Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma, để xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Như vậy, Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma dẫn đầu một đoàn người đông đảo kéo dài 12 do tuần ngự đến khu rừng núi Himavanta (Hy mã lạp sơn).

Khi ấy, Đức-vua-trời Sakka cõi Tam-thập-tam-thiên thấy rõ Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, và dẫn đầu đoàn người đông đảo gồm có toàn thể hoàng gia, các quan trong triều, các quân lính, cùng toàn thể dân chúng trong kinh-thành Sudassana và dân chúng ngoại thành, đang đi đến khu rừng núi Himavanta, để xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Cho nên, Đức-vua-trời Sakka truyền lệnh cho gọi vị thiên-nam Vissakamma hiện xuống cõi người tại khu rừng núi Himavantu, hóa ra những cốc lớn, cốc nhỏ và những thứ vật dụng cần thiết của các vị đạo-sĩ, để cho tất cả mọi người có đầy đủ chỗ ở, y phục, vật thực, thuốc trị bệnh, v.v… thuận lợi cho đời sống đạo-sĩ.

Vâng theo lệnh của Đức-vua Sakka, vị thiên nam Vissakamma xuất hiện xuống cõi người, tại rừng núi Himavanta thi hành nhiệm vụ, hóa ra những cốc nhỏ, cốc lớn và những thứ vật dụng cần thiết cho các đạo-sĩ, rừng cây ăn trái, hồ nước, đường đi kinh hành, v.v… đầy đủ tiện nghi cho các đạo-sĩ dọc theo bờ sông Gaṇgā chiều ngang ba do tuần, chiều dài năm do tuần, hóa ra một con đường dài từ bên ngoài dẫn đến vùng cốc rộng lớn ấy. Tất cả được thành tựu do oai lực của vị thiên-nam Vissakamma.

Sau khi xong phận-sự, vị thiên-nam Vissakamma trở về cõi trời Tam-thập-tam-thiên vào chầu Đức-vua-trời Sakka, tâu trình những phận-sự đã hoàn thành xong.

Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma dẫn đầu đoàn người đông đảo ngự theo con đường dài dẫn đến vùng cốc rộng lớn ấy, có đầy đủ chỗ ở và y phục của vị đạo-sĩ, v.v… Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma làm lễ xuất gia cho mọi người trở thành đạo-sĩ và thuyết dạy các pháp-hành của bậc đạo-sĩ.

Về sau, dân chúng các tỉnh thành, các làng mạc trong nước nghe tin Đức-vua Sutasoma đã từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, nên họ dẫn đầu đoàn người đông đảo đi đến khu rừng núi Himavantu, đều xin xuất gia trở thành đạo-sĩ theo Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma. Đức-Bồ-tát đạo-sĩ cho phép mọi người xuất gia trở thành đạo-sĩ càng ngày càng đông thêm.

Đức-vua-trời Sakka cõi Tam-thập-tam-thiên truyền lệnh cho vị thiên-nam Vissakamma lại xuất hiện xuống cõi người tại khu rừng núi Himavantu, dùng oai lực của mình để biến hóa thêm cốc và những thứ vật dụng cần thiết cho các vị đạo-sĩ, dọc theo bờ sông Gaṇgā chiều dài 30 do tuần.

Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sutasoma nhập thiền, rồi hóa phép-thần-thông, ngồi kiết già trên hư không thuyết pháp giảng dạy tất cả các vị đạo-sĩ rằng:

– Này các vị đạo-sĩ! Quý vị không nên nhớ tưởng lại sự an-lạc vui thích trong ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục) từ trước.

Không để những vật-dục với phiền-não-dục phát sinh trong tâm của quý vị. Thật ra, trước kia, tuy cuộc sống của quý vị ở trong kinh-thành Sudassana có đầy đủ tiện nghi. Nay hiện-tại, quý vị không nên nhớ tưởng đến cuộc sống trước kia nữa, mà quý vị nên cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định đề mục tứ vô-lượng-tâm:

– Thực-hành pháp-hành thiền-định và đề-mục niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô lượng.

– Thực-hành pháp-hành thiền-định và đề-mục niệm rải tâm-bi đến tất cả chúng-sinh vô lượng.

– Thực-hành pháp-hành thiền-định và đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến tất cả chúng-sinh vô lượng.

– Thực-hành pháp-hành thiền-định và đề-mục niệm rải tâm-xả đến tất cả chúng-sinh vô lượng.

Trước tiên, mỗi vị đạo-sĩ có thể chọn một trong ba đề-mục: đề-mục niệm rải tâm-từ, hoặc đề-mục niệm rải tâm-bi, hoặc đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến tất cả chúng-sinh vô lượng, tùy theo căn duyên của mỗi vị đạo-sĩ.

Nếu vị đạo-sĩ nào đã chứng đắc đến đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, muốn chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, thì cần phải thay đổi sang đề-mục niệm rải tâm-xả đến tất cả chúng-sinh vô lượng, để chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm.

Nếu vị đạo-sĩ nào đã chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào hưởng sự an-lạc trong kiếp hiện-tại.

Sau khi vị đạo-sĩ ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo sắc-giới quả-tâm của bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy của vị đạo-sĩ ấy (Hưởng sự an-lạc trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy cho đến hết tuổi thọ).

Toàn thể các đạo-sĩ lắng nghe lời giáo huấn của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sutasoma, rồi thực-hành pháp-hành thiền-định theo đề-mục vô-lượng-tâm đã chọn.

Đức-Thế-Tôn thuyết về tích Cūḷasutasomajātaka này, dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi vô cùng hoan hỷ trong lời giáo huấn của Ngài.

Đức-Phật thuyết bài kệ:

“Mahārajjaṃ hatthagataṃ, kheḷapiṇḍaṃva haḍḍayiṃ. Cajato na hoti laggaṃ, esā me nekkhammapāramī.”

Trong tay có sự nghiệp Đế-vương, Tiền-kiếp của Như-Lai đã từ bỏ tất cả, như nhổ một bãi nước bọt. Đã từ bỏ tất cả rồi, không hề tiếc. Đó là pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật bậc thượng của tiền-kiếp Như-Lai.

Sau khi thuyết giảng tích Đức-vua Bồ-tát Sutasoma tiền-kiếp của Đức-Phật xong, Đức-Phật dạy rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Như-Lai xuất gia, rồi dẫn dắt những người khác cùng xuất gia không chỉ kiếp này, mà tiền-kiếp của Như-Lai là Đức-vua Bồ-tát Sutasoma đã từ bỏ ngai vàng đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, rồi dắt dẫn nhiều người khác cùng xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Tích Cūḷasutasomajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại

Tích Cūḷasutasomajātaka này, Đức-vua Bồ-tát Suta-soma, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật bậc thượng trong thời quá khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu-kiếp của những nhân vật trong tích ấy liên quan đến kiếp hiện-tại như sau:

– Đức Thái-thượng-hoàng, nay kiếp hiện-tại là Đức Phụ-vương Suddhodana.

– Bà Hoàng-thái-hậu, nay kiếp hiện-tại là Mẫu-hậu Mahāmayādevī.

– Ông phú hộ Kulavaḍḍhana, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa.

– Vị Thái-tử trưởng, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

– Vị quan Mahāsenagutta, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

– Hoàng-đệ Somadatta, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Ānanda.

– Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, nay kiếp hiện-tại là Đại-đức tỳ-khưu-ni Yasodharā, Mẫu-hậu của Ngài Trưởng-lão Rāhula.

– Vị tiểu hoàng-tử, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Rāhula.

– Bà nhũ-mẫu, nay kiếp hiện-tại là bà Khujjuttara.

– Các vị đạo-sĩ, v.v… nay kiếp hiện-tại là tứ chúng: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama.

Mười Pháp-Hạnh Ba-La-Mật

Tóm lược tích Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đã tạo pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật bậc thượng, ngoài ra, còn có 9 pháp-hạnh ba-la-mật phụ cũng đồng thành tựu như sau:

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma truyền ngai vàng lại cho Hoàng-đệ Somadatta, đó là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma giữ-giới trong sạch thanh-tịnh, đó là pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma có trí-tuệ suy xét đúng, đó là pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật.

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma có sự tinh-tấn hành đạo, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật.

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma có đức nhẫn-nại thực-hành mọi thiện pháp, đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma nói lời chân-thật, đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật.

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma nói lời phát-nguyện, đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật.

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma có tâm-từ rải khắp chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật.

– Đức-vua Bồ-tát Sutasoma có tâm-xả rải khắp chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật.

Đó là 9 pháp-hạnh ba-la-mật phụ đồng thời thành tựu cùng với pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật bậc thượng ấy.

Nhận Xét Về Tích Đức-Vua Bồ-Tát Sutasoma

Pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật bậc thượng là một trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng cũng là một trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha).

Xuất-gia ba-la-mật đó là đại-thiện-tâm trong sạch quyết tâm xa lánh mọi đối-tượng ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục), từ bỏ nhà cửa, của cải, tài sản, sự nghiệp đi xuất-gia trở thành đạo-sĩ hoặc tỳ-khưu, sa-di, …

Đức-vua Bồ-tát Sutasoma, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, khi thấy một sợi tóc bạc mọc trên đầu của mình, Đức-vua Bồ-tát phát sinh động tâm, có nhận thức đúng đắn rằng:

“Một sợi tóc bạc đã mọc trên đầu của ta báo hiệu cho ta biết, tuổi già đã đến.”

Vì vậy, Đức-vua Bồ-tát Sutasoma quyết định từ bỏ ngai vàng, Chánh-cung Hoàng-hậu, 700 bà Hoàng-hậu, 16.000 cung phi mỹ nữ, các hoàng-tử, các công-chúa, để đi xuất gia trở thành đạo-sĩ, do nguyên nhân từ một sợi tóc bạc mọc trên đầu. Đức-vua Bồ-tát Sutasoma không chỉ một mình đi xuất gia trở thành đạo-sĩ mà còn có số đông đảo nhiều người khác bắt chước cùng đi theo Đức-vua Bồ-tát Sutasoma để xuất gia trở thành đạo-sĩ.

Phần đông trong chúng ta thường hay say mê trong thời trẻ trung, say mê trong lúc khỏe mạnh, say mê trong lúc còn sống, do tâm tham say mê như vậy, dễ phát sinh sự dể duôi (thất niệm), rồi tạo mọi ác-nghiệp.

Trong bài kinh Ṭhānasutta, Đức-Phật thuyết dạy các hàng đệ-tử: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ hằng ngày đêm nên thường suy xét những pháp như sau:

– Ta có sự già là thường, chắc chắn không thể tránh khỏi sự già được.

– Ta có sự bệnh là thường, chắc chắn không thể tránh khỏi sự bệnh được.

– Ta có sự chết là thường, chắc chắn không thể tránh khỏi sự chết được.

– Ta chắc chắn phải gặp cảnh xa lìa những người thân yêu, những vật ưa thích.

– Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Đó là những pháp thuộc về sự thật chân-lý khổ-đế, mà Đức-Phật thuyết dạy các hàng đệ-tử: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ hằng ngày đêm nên thường suy xét rằng:

– Ta nên thường suy xét rằng: “Ta có sự già là thường, chắc chắn không thể tránh khỏi sự già được.”

Để diệt tâm tham-ái say mê trong thời trẻ trung, nên tránh xa mọi ác-nghiệp.

– Ta nên thường suy xét rằng: “Ta có sự bệnh là thường, chắc chắn không thể tránh khỏi sự bệnh được.”

Để diệt tâm tham-ái say mê trong khi khỏe mạnh, nên tránh xa mọi ác-nghiệp.

– Ta nên thường suy xét rằng: “Ta có sự chết là thường, chắc chắn không thể tránh khỏi sự chết được.”

Để diệt tâm tham-ái say mê trong lúc còn sống, nên tránh xa mọi ác-nghiệp.

– Ta nên thường suy xét rằng: “Ta chắc chắn phải gặp cảnh xa lìa những người thân yêu, những vật ưa thích.”

Để khi ta gặp phải cảnh xa lìa những người thân yêu, hoặc bị mất mát những vật ưa thích, thì ta không phát sinh nỗi khổ tâm khóc than vì thương tiếc người ấy hoặc luyến tiếc của cải ấy.

– Ta nên thường suy xét rằng: “Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp ấy hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.” 

Để ta tin chắc nơi nghiệp và quả của nghiệp, nên không dám tạo mọi ác-nghiệp, bởi vì sợ ác-nghiệp cho quả khổ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thóat ra khỏi cõi ác-giới ấy.

Cho nên, nếu ta không muốn chịu quả khổ của ác-nghiệp thì ta nên có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi mà tránh xa mọi ác-nghiệp.

Còn nếu ta muốn quả an-lạc thì ta nên tạo mọi thiện-nghiệp từ 8 dục-giới thiện-nghiệp, 5 sắc-giới thiện-nghiệp, 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho đến 4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm, tuỳ theo khả năng của mình.

Đức-Phật thuyết dạy đoạn trong kinh Arakānusāsanī-sutta rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Trong thời hiện-tại này, khi nói đúng sự-thật thì nói rằng:

“Sinh-mạng của con người có ít ỏi, ngắn ngủi, mau hết, có khổ nhiều, có nỗi thống khổ nhiều, các con nên hiểu biết bằng trí-tuệ, nên tạo mọi thiện-pháp, nên thực-hành phạm-hạnh cao thượng, bởi vì chúng-sinh (con người) sinh ra rồi, không chết không có (Chắc chắn đều chết cả thảy).

Con người sống trong đời này, sự chết không chỉ xảy đến đối với những người già, người bệnh, mà còn có thể xảy đến đối với những người trẻ, người khỏe mạnh bất cứ lúc nào do bởi tai nạn xảy ra.

Cho nên, sự chết đối với mỗi người, đó là điều chắc chắn, nhưng không biết chắc chết khi nào.

Đối với tất cả mọi hạng phàm-nhân trong đời không chứng đắc bậc thiền thiện-tâm nào thì có năm điều không thể biết là:

– Không biết chết khi nào.

– Không biết chết nơi nào.

– Không biết chết do bệnh gì, do nguyên nhân gì.

– Không biết sau khi chết, nghiệp nào cho quả.

– Không biết tái-sinh trong cõi-giới nào.

Đó là những điều không biết, thật đáng lo sợ đối với hạng phàm-nhân.

Vậy, ta nên cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện-nghiệp tuỳ theo khả năng của mình, để làm nơi nương nhờ cho mình.

Thiện-nghiệp có 4 loại:

1- Dục-giới thiện-nghiệp trong tám dục-giới thiện-tâm (tám đại-thiện-tâm) tạo 10 đại-thiện-nghiệp đó là ba thân đại-thiện-nghiệp, bốn khẩu đại-thiện-nghiệp, ba ý đại-thiện-nghiệp, hoặc tạo mười phước-thiện đó là phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, phước-thiện hành-thiền, phước-thiện cung-kính, phước-thiện hỗ-trợ, phước-thiện hồi-hướng, phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện, phước-thiện nghe chánh-pháp, phước-thiện thuyết-pháp, phước-thiện chánh-kiến sở nghiệp của mình.

Chúng-sinh nào có dục-giới thiện-nghiệp, sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong đại-thiện-tâm có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau trong bảy cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc sáu cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện dục-giới ấy, cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

2- Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm

Nếu hành-giả nào chứng đắc sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao nào, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy. Vị phạm-thiên ấy hưởng an-lạc tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy cho dến khi hết tuổi thọ.

3- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm

Nếu hành-giả nào chứng đắc vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao nào, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy. Vị phạm-thiên ấy hưởng an-lạc tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ.

4- Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm liền cho quả có 4 Thánh-quả-tâm không có thời gian chờ đợi, cho nên, siêu-tam-giới thiện-nghiệp không cho quả tái-sinh kiếp sau, mà trái lại mỗi bậc Thánh-nhân có khả năng làm giảm kiếp tái-sinh kiếp sau từ 7 kiếp cho đến không còn tái-sinh kiếp nào nữa như sau:

– Hành-giả là hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được hai loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi), và hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong bốn cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong bảy cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc sáu cõi trời dục-giới, nhiều nhất bảy kiếp nữa mà thôi.

Đến kiếp thứ bảy, bậc Thánh Nhập-lưu, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thóat khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

– Bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được một loại phiền-não là sân loại thô (dosa), trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới một kiếp nữa mà thôi. Trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thóat khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

– Bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận một loại phiền-não là sân loại vi tế (dosa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

Bậc Thánh Bhất-lai vĩnh viễn không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới, chỉ còn tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên mà thôi.

Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thóat khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

– Bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được bảy loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn chán (thīna), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa), phóng-tâm (uddhacca) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn ngay trong kiếp hiện-tại, giải thóat khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đức-Phật thuyết dạy rằng:

– Này chư tỳ-khưu! Trong thời hiện-tại này, khi nói đúng sự-thật thì nói rằng:

“Sinh-mạng của con người có ít ỏi, ngắn ngủi, mau hết, có khổ nhiều, có nỗi thống khổ nhiều, các con nên hiểu biết bằng trí-tuệ, nên tạo mọi thiện-pháp, nên thực-hành phạm-hạnh cao thượng, bởi vì chúng-sinh (con người) sinh ra rồi, không chết không có (Chắc chắn đều chết cả thảy).

Tất cả mọi chúng-sinh dù nhỏ dù lớn trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới đều chết cả thảy, chỉ có khác nhau về thời gian mau hoặc lâu mà thôi.

Bậc thiện-trí thường suy xét về sự già, sự bệnh, sự chết, nên bậc thiện-trí không say mê trong thời trẻ trung, trong lúc khoẻ mạnh, trong lúc còn sống. Bậc thiện-trí không dể duôi trong mọi thiện-pháp, cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện-nghiệp với khả năng của mình, tạo các pháp-hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm trở thành bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thóat khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

(Xong pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật bậc thượng)

Các bài viết trong sách

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app