[11]
VIHĀRADĀNASUTTAGĀTHĀ
KỆ TỤNG VỀ SỰ THÍ TỊNH XÁ
Sītaṃ uṇhaṃ paṭihanti,
Tato vāḷamigāni ca,
Siriṃsape ca makase,
Sisire cāpi vuṭṭhiyo.
“Thất của Chư Tăng” công dụng để ngăn ngừa lạnh ướt, nóng nực, thú dữ, rắn nhỏ, rắn lớn, các côn trùng, các thứ muỗi và mưa.
Tato vātātapo ghoro,
Sañjāto paṭihaññati.
Gió và nắng quá gắt đã phát rồi hằng dội lại, bởi nhờ nơi thất.
Leṇatthañca sukhatthañca,
Jhāyituṃ ca vipassituṃ,
Vihāradānaṃ sanghassa,
Aggaṃ buddhehi vaṇṇitaṃ.
“Cách thí thất” mà người đã dâng cúng đến Chư Tăng, cho các Ngài nương-náu, an tâm, cho đặng thiêu hủy điều ác, và tu Pháp Minh-sát mà Chư Phật là các đấng Giáo chủ, đã có lời ngợi khen, là việc bố thí cao thượng.
Tasmā hi paṇḍito poso,
Sampassaṃ atthamattano.
Cớ ấy, chư Thiện tín là người trí thức, khi được thấy rõ sự lợi ích cho mình.
Vihāra kāraye ramme,
Vāsayettha bahussute.
Cần lập chùa, cất thất là nơi tiêu dao an-lạc, rồi nên thỉnh các bậc Trí tuệ đến ngụ nơi ấy.
Tesaṃ annañca pānañca,
Vatthasenāsanāni ca,
Dadeyya ujubhūtesu,
Vipasannena cetasā.
Nên tín ngưỡng các bậc đã có thân tâm chơn chánh, và dâng cúng thêm vật thực, nước, y phục và thất cho các Ngài.
Te tassa dhammaṃ desenti,
Sabbadukkhāpanudanaṃ,
Yaṃ so dhammamidhaññāya,
Parinibbātyanāsavo.
Người tín thí khi đã thấy và thông rõ Phật giáo, sẽ được dứt khỏi lậu phiền não và đến Niết-bàn.
-ooOoo-